Đàm phán hòa bình giữa Nga và Ukraine vẫn rơi vào bế tắc. Phương châm/mục tiêu “vừa đánh vừa đàm” được cả hai bên cùng thực hiện. Hay nói cách khác, mong muốn hòa bình trong đạn bom dữ dội.

Chỉ vài giờ trước đàm phán, Nga và Ukraine vẫn đẩy mạnh các đợt không kích. Sáng 2/6, các đơn vị phòng không của Nga tuyên bố đã “chặn và phá hủy” 162 drone của Ukraine, phần lớn tại các vùng biên giới như Kursk và Belgorod. Trong khi đó Ukraine tố Nga đã phóng 472 drone và bảy tên lửa trong ngày trước đàm phán. Đồng thời, Nga thông báo đã tiến sâu hơn vào vùng Sumy của Ukraine và các bản đồ nguồn mở cho thấy Nga đã chiếm 450km2 đất của Ukraine trong tháng 5, đây là mức tiến quân hằng tháng nhanh nhất kể từ đầu năm 2025 đến nay.
Tổng thống Nga Vladimir Putin từng nói rằng phải loại bỏ “nguyên nhân gốc rễ” của cuộc xung đột. Điều đó có nghĩa là Ukraine phải từ bỏ quan hệ quân sự với phương Tây, bác bỏ cái mà Moscow gọi là “ý thức hệ chống Nga” và công nhận các tiền tuyến hiện tại là biên giới trên thực tế.
Ngược lại, Ukraine cũng kiên quyết không nhượng bộ, cho rằng điều này đồng nghĩa với đầu hàng trước Nga. Như vậy, cho đến thời điểm này, hòa bình vẫn rơi vào ngõ cụt. Tình trạng bế tắc trong đàm phán hòa bình phản ánh sự xung đột sâu sắc về lợi ích, lập trường và cả tầm nhìn chiến lược của hai bên. Về phía Nga, việc yêu cầu Ukraine từ bỏ quan hệ quân sự với phương Tây và công nhận các đường ranh hiện tại đồng nghĩa với việc Ukraine phải chấp nhận một thực tế bị mất lãnh thổ, mất quyền tự chủ trong lựa chọn đồng minh, và buộc phải điều chỉnh bản sắc chính trị – điều mà bất kỳ quốc gia có chủ quyền nào cũng khó chấp nhận.
Trong khi đó, Ukraine xem những yêu sách đó như một hình thức đầu hàng không chỉ về mặt quân sự, mà cả về giá trị dân chủ, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Với sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ và Liên minh châu Âu, Ukraine càng có thêm lý do dẫu phải “chiến đấu đến người cuối cùng”.
Trong bối cảnh đó, “hòa bình” không đơn thuần là kết thúc chiến sự, mà còn là một bài toán địa chính trị phức tạp, nơi mà niềm tin đã bị xói mòn nghiêm trọng. Cả hai bên hiện đều coi việc nhượng bộ là sự thua thiệt chiến lược và có thể gây hậu quả chính trị nghiêm trọng trong nước.
Theo các nhà nghiên cứu quốc tế, trong tình hình cam go như thế, trừ khi có một bước ngoặt lớn, chẳng hạn như thay đổi lãnh đạo, biến động kinh tế sâu sắc, hoặc sức ép đủ lớn từ các bên trung gian, thì mới có chút hi vọng về một nền hòa bình. Những người vô tội phải chịu đau khổ nhiều nhất vẫn là người dân Ukraine, những người không trực tiếp quyết định chính sách, nhưng lại đang sống giữa vùng giao tranh.
Xin nhắc lại rằng, bản chất cuộc xung đột này vẫn là cuộc đối đầu mang tính hệ thống giữa Nga và phương Tây, chứ không phải chỉ là vấn đề giữa hai nhà lãnh đạo. Do đó, không ai “một mình” có thể giải quyết dứt điểm nếu không có sự thay đổi về chiến lược, hoặc đàm phán nghiêm túc từ cả hai phía. Câu hỏi lớn lúc này là, trách nhiệm của Mỹ, Phương Tây như thế nào? Liên hợp quốc chẳng lẽ khoanh tay ngồi nhìn?
Cuộc xung đột đang kéo dài, gây tổn thất nặng nề cho người dân Ukraine và làm rung chuyển cả trật tự an ninh toàn cầu. Trước hết là trách nhiệm của Mỹ và phương Tây. Họ là một phần trong xung đột – dù không trực tiếp tham chiến.
Moscow coi việc Ukraine xích lại gần phương Tây, đặc biệt là NATO, là mối đe dọa chiến lược và lấy đó làm một trong những lý do phát động chiến tranh. Phương Tây, ngược lại, cho rằng Ukraine có quyền tự quyết định liên minh, và ủng hộ Kiev là bảo vệ trật tự quốc tế dựa trên luật pháp.
Phương Tây luôn cam kết rằng, họ có trách nhiệm hỗ trợ Ukraine phòng thủ, nhưng thật ra họ đã là tác nhân chính đẩy xung đột lên cao hình thành cuộc thành chiến tranh Nga-NATO. Dẫu rằng, phương Tây tạo điều kiện cho đàm phán, nhưng khẳng định không ép Ukraine chấp nhận điều kiện bất lợi như “nhường đất để đổi lấy hòa bình”.
Điều phương Tây cũng bị chỉ trích nhiều nhất là: Tiếp tục viện trợ vũ khí mà thiếu lộ trình hòa bình rõ ràng. Mỹ, EU, và một số nước châu Âu không luôn cùng quan điểm về mức độ hỗ trợ hay cách kết thúc chiến tranh.
Liên hợp quốc thì tỏ rõ sự lúng túng và gần như bị “vô hiệu hóa” trong xung đột này vì hai lý do chính: Nga là thành viên thường trực Hội đồng Bảo an, có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết mạnh tay chống Nga đều bị bác bỏ. Liên hợp quốc cũng thiếu khả năng cưỡng chế thực tế, chỉ có thể lên án, điều tra, gửi viện trợ nhân đạo, nhưng không thể cưỡng ép chấm dứt chiến tranh nếu các bên không đồng ý.
Tuy nhiên tổ chức đa phương lớn nhất thế giới này vẫn có vai trò rất quan trọng: Hỗ trợ nhân đạo cho hàng triệu người Ukraine; đóng vai trò kỹ thuật và trung lập trong một số cơ chế đàm phán (ví dụ: thỏa thuận xuất khẩu ngũ cốc qua Biển Đen); ghi nhận và điều tra tội ác chiến tranh…
Khi “sư nói sư phải, vãi nói vãi hay” thì trách nhiệm thực sự thuộc về ai? Là bên phát động cuộc chiến, Nga phải chịu trách nhiệm lớn nhất về hành động quân sự. Còn Ukraine, tuy có quyền bảo vệ chủ quyền, nhưng cũng đang đứng trước lựa chọn khó khăn, tiếp tục chiến đấu hay đàm phán trong thế yếu. Phương Tây phải tìm cách cân bằng giữa ủng hộ nguyên tắc quốc tế và tránh đẩy nhân loại đến bờ vực một cuộc chiến tranh thế giới. Liên hợp quốc “tiếng cả nhà thanh”nhưng không thể tự mình giải quyết xung đột mà không có sự đồng thuận của các cường quốc.
Vì nhưng lý do đó, cuộc chiến Nga – Ukraine được coi là phép thử lớn cho hệ thống quốc tế sau Chiến tranh Lạnh. Nếu phương Tây chỉ biết viện trợ quân sự, nếu Nga tiếp tục dùng vũ lực để đòi lợi ích, và nếu Liên hợp quốc không cải tổ được vai trò giám sát xung đột, thì thế giới sẽ phải đối mặt với một tiền lệ nguy hiểm – nơi luật pháp quốc tế bị thay thế bởi luật rừng, và “hòa bình” sẽ luôn là món hàng xa xỉ.
H.Đ