Saturday, December 6, 2025
Trang chủGóc nhìn mớiMối tình Manila -Đài Bắc

Mối tình Manila -Đài Bắc

Theo một nghiên cứu gần đây của các nhà phân tích quốc phòng và nhà ngoại giao Philippines, trước những hành động khiêu khích trên biển ngày càng gia tăng của Trung Quốc, Philippines có xu hướng xích lại gần Đài Loan. Manila âm thầm tăng cường các mối quan hệ chính thức và không chính thức với Đài Bắc, đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh.

“Họ đang bày trận giả”

Cách đây chưa lâu, ngày 29 /4/2025, tàu chiến của ba nước Mỹ, Nhật Bản và Philippines đã tham gia cuộc diễn tập mang cái tên khá ấn tượng “Vai kề vai” (Balikatan) – tiếng Tagalog, một trong những ngôn ngữ chính thức của Philippines. Hôm 14/7 tờ The Washington Post bình luận, những động thái này đánh dấu một sự thay đổi lớn trong lập trường bảo thủ của Philippines đối với Đài Loan. Từ nay, nếu Trung Quốc quyết tâm thu hồi Đài Loan bằng vũ lực, Philippines với tư cách là đồng minh Hiệp ước của Mỹ sẽ có cơ hội đóng một vai trò quan trọng.

Ông Gilbert Teodoro, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines tuyên bố: “Bất kỳ sự phô trương sức mạnh quân sự nào của Trung Quốc ở vùng biển chung quanh chúng ta, đều rất đáng lo ngại. Mặc dù Philippines vẫn tuân thủ “chính sách một Trung Quốc”, nhưng “mối tình” Philippines và Đài Loan đang ngày càng mặn nồng”.

Cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Philippines ngày càng gay gắt về an ninh trên Biển Đông. Khu vực này là tuyến đường vận tải chiến lược mà Bắc Kinh ngang ngược tuyên bố chủ quyền dần như toàn bộ, nhưng cũng bị 6 quốc gia khác, trong đó có Philippines và Đài Loan tuyên bố chủ quyền. Thông tin mới nhất từ Hội đồng an ninh quốc gia Philippines cho hay: Số lượng tàu Trung Quốc ở vùng biển ngoài khơi bờ biển phía tây Philippines đã tăng đáng kể trong năm 2024 và sáu tháng đầu năm nay, cùng với các cuộc tấn công an ninh mạng, gián điệp và các mối đe dọa khác từ Bắc Kinh.

Vì lẽ đó Lực lượng Bảo vệ Bờ biển của Philippines gần đây đã phối hợp tuần tra cùng lực lượng đối tác Đài Loan tại Kênh Bashi, tuyến đường thủy nằm giữa khu vực pháp lý của hai bên. Tháng 6 vừa qua, các quan sát viên từ hải quân và lính thủy đánh bộ Đài Loan cũng đã tham gia một cuộc tập trận quân sự chung do lính thủy đánh bộ Mỹ và Philippines dẫn đầu.

Qua những động thái trên, có thể thấy, mặc dù Manila nói rằng Philippines và Đài Loan tăng cường hợp tác nhằm thúc đẩy đầu tư và du lịch, nhưng thật ra là họ đang bày “trận giả”, có chăng chỉ là tăng cường hợp tác về quốc phòng, an ninh. Các cuộc tập trận gần đây của Philippines đã tiến sát thực tế tấn công Trung Quốc nếu quân đội nước này dùng vũ lực thu hồi Đài Loan.

Những thông tin nêu trên phản ánh một xu hướng địa chính trị ngày càng rõ rệt trong khu vực: Philippines đang đóng vai trò chủ đạo, thậm chí mang tính chiến lược, trong việc đối phó với sự trỗi dậy và quyết đoán hơn của Trung Quốc, đặc biệt là trong vấn đề Đài Loan và Biển Đông.

Việc Manila tăng cường quan hệ với Đài Bắc, không phải là điều quá bất ngờ. Philippines nằm rất gần Đài Loan (cách nhau chưa đầy 200 km). Một khi xung đột xảy ra ở Eo biển Đài Loan, Philippines sẽ bị cuốn theo cả về mặt địa lý lẫn chiến lược. Do đó, sự hợp tác âm thầm về quốc phòng, như chia sẻ thông tin tình báo, hậu cần, thậm chí hỗ trợ nhân đạo hoặc hỗ trợ quân sự gián tiếp, là điều hoàn toàn có thể.

Còn về các cuộc tập trận gần Đài Loan giữa Philippines và Mỹ, một số cuộc có Nhật và Úc tham gia, mô phỏng kịch bản “phản ứng trước hành động vũ lực” từ Trung Quốc. Điều này là một thông điệp công khai, không chỉ với Bắc Kinh mà cả với khu vực. Nó cho thấy Philippines đã chuyển dịch đáng kể từ chính sách trung lập thời Duterte sang hợp tác chặt chẽ với Mỹ dưới thời Tổng thống Ferdinand Marcos Jr.

Trước những diễn biến mới, có thể nói chính quyền Bắc Kinh có lo ngại nhưng chưa đến mức “hoảng hốt” như một số tờ báo nước ngoài đưa tin. Trung Quốc đã nhiều lần cảnh báo Philippines “không nên can thiệp vào vấn đề Đài Loan” và đã có nhiều động thái gây áp lực cả về quân sự lẫn ngoại giao. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ “hoảng hốt” bởi họ vẫn đang kiểm soát nhịp độ leo thang, chưa để căng thẳng vượt ngưỡng nguy hiểm. Nhưng chắc chắn, Bắc Kinh phải điều chỉnh chiến lược, vì không chỉ Philippines mà cả Nhật Bản, Úc và thậm chí Hàn Quốc đều bắt đầu nhìn nhận vấn đề Đài Loan như một phần trong an ninh khu vực rộng hơn.

Sự xích lại giữa Mỹ và Philippines không đơn thuần chỉ là hợp tác song phương. Nó nằm trong chiến lược rộng hơn của Washington nhằm xây dựng “chuỗi phòng thủ thứ nhất” để kiềm chế Trung Quốc. Bắc Kinh hiểu rõ điều này và có thể sẽ đẩy mạnh hơn các công cụ phi quân sự (gây sức ép kinh tế, chia rẽ nội bộ ASEAN, tăng cường hiện diện ở Biển Đông…) để phản ứng.

Hiện tại, Philippines không còn là “bên đứng giữa” mà đang dần ngả hẳn về phía Mỹ trong vấn đề an ninh khu vực. Việc gắn kết với Đài Loan là bước đi có tính toán, nằm trong lo ngại chiến lược sâu xa về sự bất ổn nếu Trung Quốc dùng vũ lực.

Thế lưỡng nan chiến lược

Câu hỏi đặt ra lúc này là, tình hình trên đây tác động như thế nào đến các nước trong khu vực ASEAN? Liệu có tạo cú huých để thúc đẩy ASEAN và Trung Quóc sớm hoàn thành Bộ Quy tắc ứng xử (COC) trên Biển Đông?

Khu vực Biển Đông không phải là “ổn định” như Bắc Kinh thường nói. Tuyên bố này là một tuyên bố mang tính chính trị, thường được sử dụng để xoa dịu dư luận và che giấu những hành động gây bất ổn của họ trong khu vực. Nói cách khác, Biển Đông luôn “nóng”, không chỉ giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, mà còn giữa Trung Quốc và các cường quốc ngoài khu vực, như Mỹ, Nhật, Úc… Do đó ASEAN bị kéo vào thế lưỡng nan chiến lược.

Một mặt, nhiều nước ASEAN (như Việt Nam, Malaysia, Indonesia) lo ngại Trung Quốc tiếp tục gây hấn trên Biển Đông. Mặt khác, họ không muốn chọn phe trong cạnh tranh Mỹ – Trung, vì Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất và có sức ảnh hưởng mạnh về kinh tế, đầu tư, chuỗi cung ứng.

Điều này khiến ASEAN ngày càng phân hóa, khi mỗi nước đều có tính toán riêng. Chẳng hạn, Philippines ngày càng cứng rắn hơn với Trung Quốc; Campuchia, Lào, Myanmar lại nghiêng về phía Bắc Kinh; trong khi Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Singapore cố gắng duy trì trung lập.

Sự phân hóa này giữa các thành viên trong khối có thể sẽ tạo “cú huých” cho việc hoàn thành COC, nhưng là do sự “ép buộc” chứ không hoàn toàn tự nguyện. Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông đã được đàm phán gần hơn 20 năm nhưng đến nay vẫn tắc nghẽn ở nhiều khâu. Trung Quốc từng hứa hẹn hoàn tất vào năm 2023, rồi dời sang 2025. Và tiến trình này vẫn kéo dài bất tận.

Trung Quốc có thể muốn thúc đẩy xây dựng Bộ quy tắc ứng xử theo cách của họ, không ràng buộc pháp lý, không can thiệp các hoạt động quân sự của Trung Quốc, và đặc biệt loại bỏ sự hiện diện của các nước ngoài khu vực, ám chỉ Mỹ, Nhật Bản. Một số nước ASEAN có thể chấp nhận một COC mang tính “kỹ thuật-đối thoại” chỉ để giữ thể diện và không làm căng thẳng leo thang.

Như vậy, hi vọng sẽ có một “cú huých” để COC được ký kết sớm hơn, nhưng khả năng đó là một bộ quy tắc mạnh mẽ, ràng buộc pháp lý và thực sự hiệu quả là rất khó trở thành hiện thực, nếu không có thay đổi lớn từ thái độ nước lớn của Trung Quốc và sự đồng thuận nội khối ASEAN.

Về tác động lâu dài, COC có nguy cơ trở thành “vỏ rỗng”. Một khi các nước ASEAN ký một bộ quy tắc ứng xử không có ràng buộc pháp lý, không quy định rõ về quân sự hóa hay vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), thì Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục hiện diện quân sự, đe dọa ngư dân và các nước khác. Khi ấy ASEAN sẽ bị chỉ trích là “thoả hiệp để giữ ổn định tạm thời, trong khi chủ quyền và an ninh dài hạn không được bảo đảm.

Không còn nghi ngờ gì nữa, sự xích lại của Mỹ – Philippines và xu hướng đối đầu tại Eo biển Đài Loan tạo áp lực để ASEAN và Trung Quốc nhanh chóng hoàn thành COC. Thế nhưng chưa chắc đó là một thỏa thuận mạnh mẽ, và thậm chí có thể chỉ mang tính hình thức, không đủ chế tài để kiềm chế xung đột.

H.Đ

RELATED ARTICLES

Tin mới