Biển Đông lâu nay có phần im ắng. Bỗng một ngày đẹp trời cuối tháng 8, Bộ Ngoại giao Trung Quốc lên tiếng chỉ trích Việt Nam về việc “ngang nhiên bồi đắp đảo thuộc quần đảo Nam Sa” (!).

Đương nhiên, ông Quách Gia Côn – người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc – không chỉ đích danh Việt Nam mà chỉ nói đến “các bên liên quan”, nhưng các số liệu dẫn ra thì đúng là ông đang mô tả quần đảo Trường Sa của Việt Nam, quần đảo mà ông tưởng tượng ra cái tên Nam Sa.
Theo South China Morning Post, ông Quách tuyên bố trước các nhà báo: “Chúng tôi kiên quyết phản đối các hoạt động xây dựng của quốc gia liên quan trên những bãi cạn bị chiếm đóng bất hợp pháp, và sẽ có biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ cũng như quyền lợi hàng hải”.
Lý do có Tuyên bố này, theo ông Quách, nó là lời đáp lại của Trung Quốc về báo cáo của Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) có trụ sở tại Washington về tốc độ bồi đắp đảo của Việt Nam ở Biển Đông trong năm 2025.
Theo báo cáo này, Việt Nam đã “mở rộng đáng kể” hoạt động xây dựng các đảo mà Hà Nội tuyên bố chủ quyền tại quần đảo Trường Sa trên Biển Đông. Đặc biệt sai trái, trong tuyên bố nêu trên, Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định các đảo này “là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc”.
Thưa quý độc giả, Bản báo cáo của AMTI xuất bản hôm 22/8/2025, đính kèm hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam đã tiến hành nạo vét và san lấp tại các rạn san hô, gồm Bãi Tốc Tan (Alison Reef), Đá Cô Lin (Collins Reef), Đá Đông (East Reef), Đá Len Đao (Landsdowne Reef)…
Vậy là lại thêm một dẫn chứng về sự tráo trở của Trung Quốc. Tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc là một ví dụ điển hình của việc “ngược ngạo trong lập luận” về vấn đề Biển Đông. Theo chúng tôi những điểm sai trái trong tuyên bố của ông Quách thể hiện ở chỗ:
Về chủ quyền, hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã được lịch sử, pháp lý quốc tế và thực tiễn xác lập rõ ràng là thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam. Trung Quốc chỉ bắt đầu nêu yêu sách trên diện rộng (cái gọi là “Nam Sa”, “Tây Sa”) trong thế kỷ 20. Hành động cưỡng chiếm của họ, đặc biệt là tại Hoàng Sa (1974) và một số đá ở Trường Sa (1988, 1995), bằng vũ lực đã vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Về hoạt động xây dựng, Trung Quốc trong hơn một thập niên qua đã bồi đắp, xây dựng đảo nhân tạo quy mô lớn trên nhiều thực thể mà họ chiếm đóng trái phép ở Trường Sa, biến chúng thành căn cứ quân sự.
Ngược lại, Việt Nam chỉ tiến hành xây dựng, cải tạo nhỏ phục vụ đời sống dân sinh và an ninh của lực lượng trên các đảo mà nước này đang quản lý hợp pháp. Đây là hành vi hoàn toàn phù hợp với quyền chủ quyền của một quốc gia đối với lãnh thổ của mình.
Vì lẽ đó, Tuyên bố của Bắc Kinh theo kiểu lập lờ thế này nhằm đảo ngược vai trò: biến Trung Quốc từ bên đang mở rộng quân sự và bồi đắp trái phép thành “nạn nhân”, đồng thời vu cáo Việt Nam. Đây là cách Bắc Kinh tiếp tục tạo dư luận có lợi cho yêu sách “Đường lưỡi bò” vốn đã bị Tòa Trọng tài thường trực (PCA) năm 2016 bác bỏ.
Cần khẳng định dứt khoát, tuyên bố của ông Quách Gia Côn không có cơ sở pháp lý cũng như thực tế lịch sử. Nó nằm trong chuỗi lập luận tuyên truyền lâu nay của Trung Quốc nhằm hợp thức hóa các hành động phi pháp ở Biển Đông. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với Trường Sa, và việc Việt Nam duy tu, cải tạo trên các đảo mình kiểm soát là chính đáng và hợp pháp.
Việt Nam cũng như các quốc gia liên quan luôn nhận thức đầy đủ rằng, ngay cả khi một quốc gia tiến hành bồi đắp, xây dựng trên lãnh thổ hợp pháp của mình, vẫn cần chú ý đến nhiều khía cạnh để đảm bảo vừa bảo vệ chủ quyền, vừa thể hiện trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
Trách nhiệm ấy thể hiện trong việc bảo vệ môi trường biển. Hạn chế tối đa việc phá hủy rạn san hô và hệ sinh thái biển, vì đây là tài sản chung, mất đi thì rất khó phục hồi. Áp dụng công nghệ thân thiện môi trường trong việc nạo vét, xây dựng, quản lý chất thải. Có các chương trình giám sát và phục hồi môi trường sau khi bồi đắp.
Trách nhiệm ấy thể hiện ở tính minh bạch và hợp pháp. Công khai rõ ràng đây là hoạt động trên lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia mình, không phải tranh chấp. Nếu có thể, thông tin về dự án nên được chia sẻ với cộng đồng quốc tế, nhấn mạnh mục đích dân sinh (hải đăng, trạm nghiên cứu, hậu cần nghề cá…).
Trách nhiệm ấy thể hiện ở chỗ không làm gia tăng căng thẳng quân sự. Xây dựng ở mức phục vụ phòng thủ cơ bản và bảo đảm an ninh vùng biển, tránh biến nơi này thành tiền đồn quân sự khổng lồ. Ưu tiên cơ sở phục vụ cộng đồng: cứu hộ hàng hải, hỗ trợ ngư dân, nghiên cứu khoa học biển, dự báo khí tượng thủy văn. Khuyến khích nghiên cứu khoa học chung, hoặc hợp tác cứu hộ, bảo vệ môi trường biển. Tuân thủ các cam kết quốc tế, như UNCLOS 1982, cũng như Tuyên bố DOC và tiến trình xây dựng COC ở Biển Đông.
Vậy đó, trung thực, đàng hoàng, minh bạch là điều mà thế giới ngày nay tôn trọng, lựa chọn. Việc bồi đắp, xây dựng trên lãnh thổ hợp pháp của mình là quyền chính đáng của quốc gia, nhưng nếu làm một cách bền vững, có trách nhiệm, vì lợi ích cộng đồng quốc tế thì sẽ giúp khẳng định chính nghĩa. Mọi sự lợi dụng để “nói ngang nói ngược” bịa đặt, xuyên tạc, phủ nhận lịch sử đều phải bị lên án.
H.Đ