Một số hãng tin phương Tây vừa đưa ra những bình luận lấp lửng, rằng Trung Quốc ngày càng bành trướng Hải quân, với tham vọng thống trị Đại dương. Theo đó, cái ngày họ qua mặt Mỹ, trở thành người coi sóc biển cả mênh mông không còn xa nữa.

“Thống trị đại dương” không dễ như ăn tiệc
Những thông tin báo chí-truyền thông đưa ra cũng đáng giật mình. Trong hai thập niên vừa qua, Trung Quốc đã đã sải những bước chân của người khổng lồ trong việc đầu tư vào việc đóng tàu. Tháng 8/2025, tàu sân bay Phúc Kiến (Fujian) là tàu sân bay lớn nhất và hiện đại nhất của Trung Quốc, là siêu tàu đầu tiên được trang bị máy phóng điện từ, hoàn toàn do trong nước thiết kế và chế tạo, đang chuẩn bị cho lễ biên chế chính thức. Trung Quốc đã chạm vào dấu mốc kinh ngạc: hơn 60% đơn hàng của thế giới trong năm 2025 thuộc về các xưởng đóng tàu Trung Quốc.
Nguồn tin trong nước hoan hỉ, Trung Quốc đã đóng được nhiều tàu hơn bất kỳ quốc gia nào khác, vì họ làm nhanh và làm tốt hơn tất cả. Đằng sau thông tin này là một thông điệp lớn hơn: Sự trỗi dậy mãnh liệt của đất nước hơn một tỉ dân gắn chặt với biển. Đến nay, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới có 7 trong số 10 cảng biển tấp nập nhất thế giới.
Vì vậy, không khó để nhận ra điều này, khi tham vọng của Bắc Kinh làm chủ Đại dương, độc chiếm Biển Đông lớn dần thì kho tàu quân sự của họ cũng ngày càng hùng hậu. Từ đây Bắc Kinh tự tin khẳng định tiếng nói mạnh mẽ hơn ở “vùng Biển NamTrung Hoa”và xa hơn nữa.
Cũng phải ái ngại nói ra điều này, dẫu ngài Donald Trump – Tổng thống đương kim của Mỹ có hơn buồn, Hải quân Mỹ, dù vẫn có nhiều lợi thế đáng kể, đang thấy rằng khoảng cách về năng lực với Trung Quốc ngày càng thu hẹp và đang loay hoay tìm cách ứng phó, vì năng lực đóng tàu của Mỹ suy giảm nghiêm trọng trong nhiều thập kỷ qua.
“Mơ ước” là một chuyện. Có làm được không lại là chuyện khác. Hình như ông Trump rất thích câu này. Chúng ta đang bàn đến một vấn đề rất nóng và phức tạp: tham vọng biển của Trung Quốc và phản ứng của Mỹ và các cường quốc khác.
Những con sóng dữ sẽ nhấn chìm anh một khi anh bơi trên mặt nước quá dễ dàng. Các cường quốc biển đã và đang nhìn về Trung Quốc, theo dõi một cách thận trọng và tính toán một cách khôn ngoan, quyết liệt. Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Úc và châu Âu đều nhìn thấy rất rõ tham vọng hàng hải của Trung Quốc. Vì vậy, liên minh và hợp tác hải quân đã và đang ngày càng được đẩy mạnh.
NATO và các đối tác ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (như QUAD, AUKUS) thời gian quan tăng cường hiện diện, tuần tra tự do hàng hải (FONOPs), và tập trận chung. Đồng thời, hớp tác chặt chẽ về kinh tế – công nghệ. Mỹ và châu Âu tích cực hỗ trợ các tập đoàn đóng tàu của mình, chuyển đơn hàng sang Hàn Quốc, Nhật Bản để không quá phụ thuộc Trung Quốc. Không có chuyện “khoanh tay đứng nhìn”, nhưng phản ứng chủ yếu của các quốc gia liên quan là thông qua cạnh tranh công nghệ, liên minh chiến lược và hiện diện quân sự.
Và như vậy, mối lo xa Mỹ chấp nhận “tấm vé thứ nhì” trên bàn cờ thế giới giống như một câu chuyện ngụ ngôn thời hiện đại. Mỹ là siêu cường toàn cầu, và ưu thế lớn nhất vẫn là hải quân và mạng lưới đồng minh. Trung Quốc dù có nhiều tàu, nhưng Mỹ vẫn vượt trội về chất lượng công nghệ, tàu sân bay, tàu ngầm hạt nhân, kinh nghiệm chiến đấu và căn cứ toàn cầu.
Washington sẽ không dễ dàng nhường ngôi vị số một. Ngược lại, Mỹ sẽ tăng cường răn đe, liên minh quân sự và chiến tranh công nghệ để giữ vị thế. Tuy nhiên, cạnh tranh Mỹ – Trung trên biển là xu hướng lâu dài, có thể dẫn tới chia sẻ ảnh hưởng khu vực (ví dụ Trung Quốc mạnh ở Biển Đông, Mỹ mạnh ở Thái Bình Dương mở rộng).
Vậy ở vùng biển nóng – Biển Đông, Bắc Kinh sẽ xoay sở ra sao? Họ đã “xoay” lâu rồi. Trung Quốc đã bồi đắp đảo nhân tạo, quân sự hóa, và gia tăng tàu dân binh để áp đặt yêu sách. Nhưng họ chưa thể “hoàn toàn xoay chuyển cục diện”, bởi vì: Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ, EU… đều có lợi ích tại tuyến hàng hải này.
Các nước ASEAN như Việt Nam, Philippines, Malaysia… đang tăng cường hợp tác quốc phòng, kiện tụng quốc tế, và tranh thủ liên minh để kiềm chế Bắc Kinh. Cụ thể là: Củng cố lực lượng chấp pháp và hải quân; tận dụng luật pháp quốc tế (UNCLOS, phán quyết PCA 2016); liên kết đa phương thay vì đơn độc đối phó Trung Quốc; hợp tác kinh tế – quân sự với Mỹ, Nhật, Ấn, EU để tạo thế cân bằng.
Không còn nghi ngờ gì nữa, Trung Quốc đang bành trướng nhanh chóng, nhưng việc “thống trị đại dương” không dễ như ăn tiệc ở Trung Nam Hải. Mỹ và các cường quốc biển sẽ không chấp nhận để mất vị thế, còn các nước trong khu vực (đặc biệt ở Biển Đông) buộc phải kết hợp giữa tự cường và liên minh quốc tế.
Phán quyết PCA 2016 không “chết”
Có câu hỏi đặt ra: Philippines lâu nay có vẻ như đã “chán” không muốn nhắc lại việc Bắc Kinh ném phán quyết của Tòa trọng tài LHQ (PCA) vào sọt rác từ năm 2016? Đây là một vấn đề rất then chốt. Phán quyết PCA năm 2016 là một thắng lợi pháp lý lớn của Philippines và gián tiếp có lợi cho các nước ASEAN khác, nhưng Trung Quốc đã bác bỏ hoàn toàn, còn Manila thì từng có giai đoạn “gác lại” dưới thời Tổng thống Duterte. Nay tình hình đã thay đổi. Việc khởi động lại mặt trận ngoại giao-pháp lý là rất cần thiết. Thực tế Manila đã và đang tiếp tục công việc.
Đó là, khôi phục giá trị pháp lý và truyền thông quốc tế. Philippines liên tục nhắc lại phán quyết PCA tại các diễn đàn Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an, Đại hội đồng, Hội nghị luật biển, ASEAN, G20… Vận động truyền thông quốc tế biến phán quyết thành một “chuẩn mực” pháp lý được nhắc đến thường xuyên, buộc Trung Quốc luôn bị đặt vào thế bị động. Đồng thời, hợp tác cùng các nước có lợi ích tại Biển Đông (Việt Nam, Malaysia, Indonesia, thậm chí Nhật, Mỹ, EU) để ra tuyên bố chung công nhận và tôn trọng phán quyết.
Một giải pháp tạo sức mạnh tổng hợp là tăng cường Liên minh pháp lý-ngoại giao trong khu vực. Manila không đi một mình, mà kéo ASEAN cùng vào cuộc. Các nước cùng có tranh chấp như Việt Nam, Malaysia, Brunei có thể cùng nhau khởi động các kiện tụng mới, dựa trên UNCLOS; phối hợp xây dựng “mặt trận pháp lý chung” để tránh tình trạng Trung Quốc chia rẽ từng nước; thúc đẩy ASEAN và Trung Quốc sớm đạt Bộ Quy tắc ứng xử (COC) có tính ràng buộc, chứ không chỉ là cam kết chính trị.
Tới đây vấn đề Biển Đông sẽ thường xuyên được đưa ra trước Đại hội đồng LHQ , cho dù nghị quyết không ràng buộc, nhưng tạo sức ép chính trị. Vận dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp khác trong UNCLOS (trọng tài bổ sung, cơ chế hòa giải). Kêu gọi các nước lớn ngoài khu vực (Mỹ, Nhật, Úc, EU, Ấn Độ) lên tiếng công nhận phán quyết, coi đây là một phần của “luật quốc tế hiện hành”.
Pháp lý và thực địa cần được tiến hành nhịp nhàng. Tuần tra chung giữa Philippines, Mỹ, Úc, Nhật là chứng minh một điều luật pháp quốc tế có “hậu thuẫn trên biển”, không để Trung Quốc “tạo sự đã rồi” bằng cách quân sự hóa thêm các đảo nhân tạo.
Cần khẳng định: Phán quyết PCA 2016 không “chết”, nó chỉ “bị lãng quên” khi Manila chưa sử dụng hiệu quả. Nếu Philippines khởi động lại, phối hợp với các nước cùng có tranh chấp và thuyết phục, lôi kéo cộng đồng quốc tế, phán quyết này sẽ trở thành cơ sở pháp lý và công cụ ràng buộc dư luận đối với Trung Quốc.
H.Đ