Wednesday, December 17, 2025
Trang chủBiển ĐôngChiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Nhật Bản...

Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Nhật Bản tác động tích cực đối với Biển Đông

Cuối tháng 4/2025, Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Ishiba đã đến thăm Việt Nam và Philippines 4 ngày trong khuôn khổ “Tuần lễ Vàng” tại Nhật Bản. Tại 2 quốc gia Đông Nam Á này, Thủ tướng Shigeru Ishiba tái khẳng định sự nhất quán trong “Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (FOIP) của đất nước mặt trời mọc, đồng thời cho thấy rõ ý nghĩa của Chiến lược này đối với việc duy trì hoà bình, ổn định ở Biển Đông nói riêng và khu vực nói chung.

Được xây dựng dưới thời chính quyền cố Thủ tướng Shinzo Abe cách đây hai thập kỷ, chiến lược ngoại giao và an ninh này không chỉ tồn tại qua 4 chính quyền, mà còn được tiếp tục phát triển và mở rộng qua mỗi nhiệm kỳ của các nhà lãnh đạo kế nhiệm của Nhật Bản. Trong kỷ nguyên bất ổn chiến lược gia tăng, sự nhất quán trong FOIP của Nhật Bản tiếp tục chứng minh ý nghĩa quan trọng của việc củng cố trật tự quốc tế dựa trên các quy tắc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Nguồn gốc của FOIP bắt nguồn từ năm 2006 dưới thời chính quyền Shinzo Abe đầu tiên. Trong khi Nhật Bản đã triển khai các chính sách nhằm tang cường các mối quan hệ với khu vực vì mục đích kinh tế từ lâu đời, chính quyền của ông Abe đã nhận thấy sự cần thiết phải tích hợp một cách có chủ đích các công cụ sức mạnh của các quốc gia khác vào các nỗ lực của Tokyo, đặc biệt là trong các lĩnh vực ngoại giao và an ninh.

Quá trình phát triển chiến lược này là một quá trình lặp đi lặp lại. Bắt đầu là khái niệm “sự hợp lưu của hai vùng biển” mà chính quyền Abe nhấn mạnh đến sự kết nối về lợi ích và trách nhiệm giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, đã phát triển thành ý tưởng “Kim cương Thái Bình Dương”, xác định bốn điểm quan trọng trong khu vực: Quần đảo Hawaii (Mỹ), Nhật Bản, Úc và Ấn Độ. Chính quyền Abe hiểu được sự cần thiết phải hợp tác giữa các quốc gia này trong “Bộ tứ – QUAD”. Tuy nhiên, nỗ lực chiến lược đã bị đình trệ trong giai đoạn Nhật Bản đổi Thủ tướng liên tục bắt đầu vào năm 2007 và sau cú sốc chiến lược lớn từ thảm họa động đất – sóng thần – hạt nhân Fukushima vào năm 2011

Khi ông Abe trở lại nắm quyền vào năm 2012, chính quyền của ông đã khôi phục nỗ lực phát triển chiến lược khu vực này. Mặc dù chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu triển khai chiến lược này trên thực tế sau khi Abe trở lại nắm quyền, nhưng tới năm 2016 mới chính thức được gọi là FOIP.

Về cơ bản, FOIP nhằm mục đích duy trì sự ổn định trong khu vực, duy trì chủ quyền của từng quốc gia, bảo vệ khỏi sự cưỡng ép, đồng thời đảm bảo duy trì các quy tắc làm nền tảng cho hệ thống quốc tế. Các cách thức để đạt được điều này rất rộng, bao gồm xây dựng năng lực đối tác, tham gia ngoại giao, hỗ trợ cơ sở hạ tầng, đầu tư trực tiếp nước ngoài, hỗ trợ phát triển và hợp tác an ninh, cùng nhiều biện pháp khác. Đây là một chiến lược mà Mỹ và các nước khác đã tiếp thu ít nhất ở một mức độ nào đó, không chỉ áp dụng tên gọi mà còn áp dụng các yếu tố khác của chiến lược.

Khi Abe từ chức Thủ tướng đã có một số câu hỏi đặt ra về việc điều gì sẽ xảy ra với FOIP vì các chính quyền mới thường có xu hướng thay đổi chính sách. Tuy nhiên, thay vì xóa bỏ chiến lược này, các Thủ tướng tiếp theo đã tiếp tục phát triển và hoàn thiện Chiến lược. Các nhà lãnh đạo tiếp theo của Nhật Bản Yoshihide Suga, Fumio Kishida và hiện tại là Ishiba đều tiếp tục ưu tiên chiến lược này. Kết quả là, Nhật Bản đã làm sâu sắc hơn và thể chế hóa mối quan hệ với các đối tác, cũng như kiềm chế tốc độ và tác động của ảnh hưởng tiêu cực trên khắp khu vực, có thể là từ Trung Quốc, Nga hoặc các nước khác.

Chuyến thăm gần đây nhất của Ishiba tới Việt Nam và Philippines là minh chứng cho cho sự phát triển liên tục trong việc triển khai chiến lược này của Nhật Bản ở khu vực. Tại Hà Nội, các nhà lãnh đạo Nhật Bản và Việt Nam đã kêu gọi thành lập cơ chế trao đổi chính sách đối ngoại và quốc phòng cấp thứ trưởng “2+2”. Hai bên đã thảo luận về các biện pháp ổn định thương mại và sản xuất trong khu vực trong bối cảnh bất ổn kinh tế xuất phát từ các quyết sách của Mỹ, cũng như việc chuyển giao thiết bị quốc phòng như một phần của khuôn khổ “Viện trợ An ninh chính thức – OSA” của Nhật Bản.


Chuyến thăm Philippines cũng có hiệu quả tương tự. Trong khi tập trung giải quyết các vấn đề như thương mại và công nghiệp, hai Chính phủ đã đồng thời nhất trí bắt đầu đàm phán về “Thỏa thuận mua lại và dịch vụ chéo ACSA” (một thỏa thuận nhằm cải thiện khả năng tương tác và hỗ trợ hậu cần lẫn nhau), đồng thời thúc đẩy việc ký kết “Thỏa thuận tiếp cận tương hỗ – RAA”. Được mô phỏng theo RAA Nhật Bản – Úc và Nhật Bản – Anh, thỏa thuận này sẽ bao gồm các quyền, nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với Lực lượng vũ trang Philippines và Lực lượng phòng vệ Nhật Bản hoạt động trên lãnh thổ của nhau.
Giới chuyên gia nhận định sự nhất quán trong FOIP có ý nghĩa quan trọng bởi 2 lý do cơ bản sau:

Một là, để các chiến lược cấp quốc gia có hiệu quả, phải có sự liên tục trong quá trình thực hiện và cần có thời gian để hiện thực hóa. Chính phủ phải lập kế hoạch ngân sách cho chiến lược, phân công nhiệm vụ cho các cơ quan và nhân sự để thực hiện các sáng kiến và điều chỉnh các chính sách trong quá trình thực hiện dựa trên thành công hay thất bại. Đây là nỗ lực kéo dài nhiều năm và trở nên hiệu quả hơn khi các sáng kiến chiến lược bắt đầu phát huy tác dụng.

Quan điểm đó chắc chắn đúng với Nhật Bản và chiến lược này. Chẳng hạn như, Nhật Bản mất gần một thập kỷ để ký kết RAA đầu tiên với Úc, nhưng Nhật Bản đã sử dụng khuôn mẫu đó trong các cam kết của mình với Vương quốc Anh, Philippines và các nước khác. Hỗ trợ an ninh chính thức chưa phải là một chương trình được thể chế hóa cho đến năm 2022, nhưng hiện là trụ cột cho việc xây dựng năng lực đối tác của Nhật Bản trong khu vực.
Hai là, đây là giai đoạn bất ổn chiến lược ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Khi cạnh tranh giữa các cường quốc leo thang, chắc chắn sẽ có những tác động lan tỏa hơn nữa. Điều này đã diễn ra với sự gián đoạn đối với nền kinh tế toàn cầu thông qua các chính sách thương mại của Mỹ. Các vấn đề liên quan đến mạng lưới liên minh của Mỹ, tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc và cuộc chiến tranh xâm lược của Nga với sự hỗ trợ của Triều Tiên càng làm gia tăng cảm giác khó lường.

Sự nhất quán của Nhật Bản trong cách tiếp cận chiến lược của mình lại có tác dụng ngược lại. FOIP góp phần vào sự ổn định, đặc biệt là đối với các quốc gia nhỏ hơn trong khu vực phụ thuộc vào hệ thống quốc tế về thương mại, an ninh và các vấn đề khác. Điều này đúng không chỉ vì Nhật Bản là một nền dân chủ tự do và tuân thủ luật pháp, quy tắc và chuẩn mực quốc tế, mà còn vì Nhật Bản có sức mạnh ngoại giao, an ninh và kinh tế để hỗ trợ. Sức mạnh tương đối và sự sẵn sàng sử dụng sức mạnh này theo những cách có lợi cho sự ổn định của khu vực tạo nên một “đê chắn sóng” chống lại những “con sóng” đã và sẽ tiếp tục dâng cao.

Sau khi nhậm chức tháng 10/2024, Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Ishiba đã thực hiện chuyến công du nước ngoài đầu tiên tới 2 nước Đông Nam Á là Malaysia và Indonesia và tháng 01/2025 và đã đạt được nhất trí với lãnh đạo 2 quốc gia này về thúc đẩy an ninh khu vực dựa trên luật lệ, xây dựng chuỗi cung ứng mạnh mẽ; cùng phối hợp về các vấn đề khu vực và quốc tế, bao gồm vấn đề an ninh và hoà bình ở Biển Đông và Biển Hoa Đông. Đáng chú ý, tại Jakarta Thủ tướng Shigeru Ishiba và Tổng thống Indonesia Prabowo Subianto đã đồng ý thiết lập các cuộc tham vấn quốc phòng về an ninh hàng hải, trong đó có cả hợp tác kỹ thuật về thiết bị quốc phòng; Nhật Bản đồng ý cung cấp cho Indonesia 2 tàu tuần tra tốc độ cao thông qua Hỗ trợ an ninh chính thức.

Chuyến thăm Việt Nam và Philippines hồi cuối tháng 4 trùng vào tuần nghỉ lễ của Nhật Bản. Đáng chú ý điểm đến thăm là 2 quốc gia Đông Nam Á đang phải hứng chịu sự chèn ép, bắt nạt nhiều nhất từ chính sách hung hăng, bành trướng của Bắc Kinh. Chuyến đi mang tính biểu tượng về việc tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng giữa Nhật Bản và 2 quốc gia này. Các hoạt động và kết quả của chuyến thăm là lời khẳng định rõ ràng rằng Nhật Bản sẽ tiếp tục can dự ngày càng sâu hơn vào Biển Đông và sẽ tiếp tục sát cánh cùng các nước này trong cuộc đối đầu với những thách thức từ Bắc Kinh.Trong 6 tháng kể từ khi nhậm chức, Thủ tướng Nhật Bản Shigeru Ishiba đã tới thăm 4 nước ven Biển Đông, trong đó có 3 nước liên quan trực tiếp tới tranh chấp Biển Đông và Indonesia không phải là một bên yêu sách, song cũng nhiều lần bị tàu chiến, tàu hải cảnh và tàu dân quân biển Trung Quốc xâm phạm quấy nhiễu hoạt động dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế xung quanh quần đảo Natuna. Điều này không chỉ thể hiện tính nhất quán trong chính sách của Tokyo đối với Biển Đông và Đông Nam Á mà còn khẳng định rõ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, giống như nước này đã làm trong thập kỷ qua.

Giới chuyên gia nhận định Biển Đông và Đông Nam Á luôn là một phần quan trọng hàng đầu trong trong FOIP của Nhật Bản và ngược lại Chiến lược ấy cũng luôn tác động tích cực tới Biển Đông, thể hiện trên một số điểm sau:

Thứ nhất, Nhật Bản đã làm rất nhiều trong suốt vài thập kỷ qua để xây dựng mối quan hệ sâu sắc hơn với các đối tác trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), nhất là các nước ven Biển Đông. Việc Tokyo tiếp tục phát huy vai trò trong thúc đẩy Chiến lược là yếu tố quan trọng để Nhóm Bộ Tứ (gồm Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ) can dự sâu hơn vào Biển Đông nhằm duy trì trật tự dựa trên luật lệ.

Thứ hai, trong quá trình thúc đẩy Chiến lược, Nhật Bản tiếp tục mở rộng, tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng với các nước ven Biển Đông như Philippines, Việt Nam, Indonesia, Malaysia…, giúp các nước này nâng cao năng lực của các lực lượng thực thi pháp luật. Điều này có ý nghĩa khích lệ các nước khác trong Nhóm Bộ Tứ và các nước châu Âu tăng cường hỗ trợ các nước ven Biển Đông trong việc đối phó với sự chèn ép, bắt nạt của Bắc Kinh.

Thứ ba, khi thúc đẩy Chiến lược, Nhật Bản sẽ đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật để duy trì trật tự dựa trên luật lệ ở khu vực, trong đó có Biển Đông. Điều này sẽ tạo ra áp lực lớn đối với Bắc Kinh – kẻ luôn phá hoại và bất chấp luật pháp quốc tế. Năm 2021, Nhật Bản cũng đã gửi công hàm lên Liên hợp quốc bày tỏ quan điểm pháp lý trên các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông và bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Tính nhất quán trong FOIP của Nhật Bản góp phần thúc đẩy tiến trình pháp lý ở Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới