Vậy là sau 6 năm, Chính phủ Mỹ đã phải đóng cửa. Chưa rõ thời gian đóng cửa kéo dài trrong bao lâu (lần đóng cửa cách đây 6 năm là 35 ngày).

Nếu shutdown kéo dài
Vào lúc 0h ngày 1/10 theo giờ Mỹ (11h cùng ngày theo giờ Việt Nam), Chính phủ Mỹ ngừng hầu hết các hoạt động sau khi Quốc hội nước này không thể thông qua dự luật tạm thời duy trì ngân sách chính phủ. Diễn biến này sẽ khiến nhiều bộ, cơ quan liên bang phải ngừng hoạt động, ảnh hưởng đến hàng trăm nghìn nhân viên chính phủ.
Bất chấp các cuộc thương lượng dồn dập tại Quốc hội Mỹ, vẫn không có bước đột phá nào giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa để đảm bảo ngân sách cho Chính phủ Mỹ tiếp tục hoạt động sau ngày 30/9 – thời điểm kết thúc năm tài khóa. Các thượng nghị sĩ Mỹ đã bác bỏ 2 kế hoạch do Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đưa ra. Lý do bác bỏ rất rõ ràng: giữ cho các cơ quan chính phủ tiếp tục hoạt động, trước khi nguồn tài trợ hết hạn vào nửa đêm 1/10.
Trong lúc “lửa cháy, dầu sôi”, Tổng thống Donald Trump và các ông Nghị thuộc Đảng Cộng hòa tìm cách gia hạn chi tiêu hiện tại, cố duy trì ngân sách chính phủ đến ngày 21/11. Cách “dập lửa” này nhằm giúp các nhà lập pháp có thời gian đàm phán để cấp ngân sách đầy đủ cho cả năm, bắt đầu từ ngày 1/10.
Thế nhưng kết quả bỏ phiếu cuối cùng chỉ đạt 55-45, chưa đạt 60 phiếu “đồng ý” cần thiết. Thượng viện đã bác bỏ dự luật tạm thời duy trì ngân sách chính phủ, đồng thời bác bỏ đề xuất dự luật chi tiêu tạm thời thay thế của Đảng Dân chủ, trong đó có khoản gia hạn trợ cấp theo Đạo luật Chăm sóc sức khỏe giá cả phải chăng (Obamacare) và ngăn Tổng thống Trump thu hồi các khoản ngân sách đã được phê duyệt.
Ở xứ Cờ hoa người ta đã quen với động từ “đóng cửa” Chính phủ. Bởi việc đóng cửa ngắn hạn không gây tác động lớn lên nền kinh tế, đặc biệt khi công chức được trả lương hồi tố. Theo một nghiên cứu của Goldman Sachs (ngân hàng đầu tư và công ty dịch vụ tài chính đa quốc gia của Mỹ), các đợt đóng cửa kéo dài trong quá khứ thường không làm thị trường chứng khoán giảm sâu, thậm chí thị trường còn hồi phục nhanh sau đó.
Nhưng nếu đóng cửa kéo dài, sẽ nảy sinh những bất định về vai trò của chính phủ trong xã hội, ảnh hưởng tài chính tới các chương trình do chính phủ tài trợ. Một vấn đề khác, việc đóng cửa chính phủ Mỹ có thể làm giảm tăng trưởng GDP khoảng 0,15 điểm phần trăm mỗi tuần, hoặc khoảng 0,2 điểm phần trăm khi tính thêm tác động đến khu vực tư nhân. Việc này ông chủ Nhà trắng vẫn có thể kê cao gối ngủ, vì mức giảm đó sẽ được bù đắp trong quý tiếp theo, khi chính phủ hoạt động trở lại.
Đấy là chuyện ở Mỹ, cũng như các nước phát triển cao. Còn ở các nước phát triển trung bình, chậm phát triển thì vấn đề không đơn giản thế. Ở Mỹ, ngân sách liên bang (federal budget) được Quốc hội thông qua hằng năm để cấp tiền cho các cơ quan và chương trình liên bang. Nếu đến hạn mà Quốc hội không đạt được thỏa thuận (thường do mâu thuẫn giữa Hạ viện, Thượng viện và Tổng thống), thì ngân sách mới không được thông qua.
Khi ngân sách hết hạn, nhiều cơ quan liên bang buộc phải tạm dừng hoạt động không thiết yếu. Điều này gọi là government shutdown. Nguyên nhân chủ yếu không đến từ kinh tế mà là chính trị, chủ yếu là do sự bất đồng giữa các đảng phái về các ưu tiên chi tiêu, cắt giảm ngân sách, hoặc các chính sách đi kèm.
Có một vấn đề đáng quan tâm, liệu việc đóng cửa chính phủ có ảnh hưởng đến kinh tế Mỹ? Xét trong ngắn hạn, một số cơ quan liên bang tạm nghỉ, khoảng 750.000 nhân viên liên bang sẽ bị cho nghỉ việc tạm thời; các dịch vụ công như xử lý hồ sơ thị thực, nghiên cứu khoa học, công viên quốc gia… bị gián đoạn. Điều này gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế và đời sống dân chúng.
Về tài chính, nếu shutdown kéo dài, niềm tin của thị trường vào khả năng quản lý tài chính của chính phủ Mỹ suy giảm, gây biến động trên thị trường chứng khoán và trái phiếu chính phủ. Từ đây gây lo lắng cho người dân, doanh nghiệp và nhà đầu tư về sự ổn định chính trị.
Đáng chú ý đây không đơn giản là “chuyện trong nhà” của Mỹ. Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới, đồng USD là đồng tiền dự trữ chủ chốt. Việc Mỹ “đóng cửa chính phủ” có thể khiến thị trường tài chính toàn cầu dao động mạnh. Nếu đi kèm với nguy cơ không nâng trần nợ công, thị trường toàn cầu lo ngại Mỹ không thanh toán đúng hạn các khoản nợ, kéo theo tác động dây chuyền đến hệ thống tài chính thế giới.
Vấn đề đã rõ, rõ như “bánh đúc bày sàng” theo cách nói của người Việt. Nguyên nhân chính để cánh cửa khép là chính trị, không phải do Mỹ “hết tiền”. Kinh tế thế giới bị ảnh hưởng thì chủ yếu qua tâm lý thị trường và niềm tin vào khả năng quản trị tài chính của Mỹ.
Đối với Việt Nam và các nước có đang thường xuyên xuất, nhập khẩu hàng hóa với số lượng lớn, việc Mỹ “đóng cửa” chính phủ có làm các đối tác lao đao hay không?
Việc chính phủ Mỹ “shutdown” chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động trong nước Mỹ (các cơ quan liên bang ngừng hoạt động không thiết yếu). Các cảng biển, hải quan và các dịch vụ an ninh biên giới của nước này vẫn thường được duy trì, vì đây là hoạt động “thiết yếu”. Do đó, xuất nhập khẩu hàng hóa cơ bản không bị ngưng trệ hoàn toàn.
Tuy nhiên, một số thủ tục hành chính, giấy phép kiểm định, chứng nhận an toàn… có thể bị trì hoãn nếu cơ quan phụ trách bị “đóng cửa tạm thời”. Điều này có thể gây chậm trễ trong khâu thông quan hoặc đưa hàng vào thị trường Mỹ.
Bên cạnh đó có những ảnh hưởng gián tiếp. Khi Mỹ đóng cửa chính phủ, niềm tin nhà đầu tư suy giảm, đồng USD và chứng khoán có thể biến động. Việt Nam phụ thuộc nhiều vào USD trong thanh toán quốc tế, cho nên doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể chịu rủi ro về tỷ giá.
Nếu shutdown kéo dài và làm giảm niềm tin tiêu dùng tại Mỹ, người dân Mỹ có thể thắt chặt chi tiêu. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ (quần áo, giày dép, đồ gỗ, điện tử…). Về tâm lý doanh nghiệp, người làm xuất, nhập khẩu có thể lo ngại về sự ổn định trong quan hệ thương mại, từ đó dè dặt trong kế hoạch sản xuất hoặc đầu tư.
Muốn đỡ “lao đao” thì phải “phù phép”
Đánh giá mức độ “lao đao” của các đối tác, xin thưa với quý vị, nếu shutdown chỉ kéo dài ngắn hạn (vài ngày đến vài tuần) thì Việt Nam không bị ảnh hưởng nghiêm trọng, chỉ có thể gặp một số chậm trễ thủ tục và dao động tỷ giá. Nhưng nếu nó kéo dài nhiều tháng và trùng với khủng hoảng nợ công Mỹ, thì tác động gián tiếp sẽ lớn: USD biến động mạnh, thị trường tài chính toàn cầu bất ổn, nhu cầu nhập khẩu của Mỹ giảm, khi ấy Việt Nam (vốn xuất khẩu nhiều sang Mỹ) sẽ chịu áp lực.
Các ngành kinh tế dễ “lao đao” nhất là: Dệt may và da giày; gỗ và nội thất; điện tử và linh kiện; thủy sản (cá tra, tôm),v.v.. Trước khi cơn bão ập đến, chính phủ Việt Nam cũng như các đối tác có hoàn cảnh tương tự tìm cách “phù phép” ra sao?
Trước tiên là phải đa dạng hóa thị trường, không phụ thuộc quá lớn vào Mỹ. Tận dụng các FTA như EVFTA, CPTPP để mở rộng sang EU, Nhật Bản, Canada, Úc. Hai là, có chính sách tài chính – tiền tệ linh hoạt, nếu USD biến động mạnh, Ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp ổn định tỷ giá VND/USD, giảm sốc cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ba là, hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu, đẩy nhanh các thủ tục hành chính trong nước, hỗ trợ chi phí logistics, tìm kênh phân phối mới.
Cần phải tận dụng mọi cơ hội, biến “nguy” thành “cơ”. Trong biến động, doanh nghiệp Việt cũng có thể tìm lợi thế: nếu Mỹ hạn chế nhập từ một số đối thủ (ví dụ do chính sách), Việt Nam có thể chen vào khoảng trống thị trường.
Chẳng riêng chuyện Mỹ đóng cửa chính phủ vào lúc này mới phải lo chống đỡ. Đó là câu chuyện bài bản, lâu dài thời hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa. Gọi là “phù phép” hay sáng tạo, phá vây cũng nhằm mục tiêu cứu sản xuất và thị trường trong nước.
H.Đ