Ngày 27/6/2025, Tổng thống Indonesia Prabowo Subianto và Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim đã nhất trí thúc đẩy một thỏa thuận kinh tế về hợp tác khai thác lô Ambalat giàu năng lượng. Diễn biến mới nhất này đánh dấu một bước tiến đáng kể trong hợp tác biển, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của liên hợp quốc về Luật Biển 1982.
Tình trạng các tranh chấp chưa được giải quyết và căng thẳng leo thang tại Biển Đông không phải do các quốc gia Đông Nam Á không sẵn sàng, thiện chí đàm phán mà là do sự chồng lấn các yêu sách chủ quyền của các bên đối với quần đảo Hoàng Sa, các yêu sách bất hợp pháp của Trung Quốc và các hoạt động đơn phương rộng khắp của nước này nhằm hiện thực hoá các yêu sách này. Do đó, điều quan trọng là các quốc gia ASEAN có yêu sách ở Biển Đông – đặc biệt là Malaysia, Philippines và Việt Nam – cần định hướng lại cách tiếp cận của mình.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với gần như toàn bộ Biển Đông dựa trên yêu sách “đường lưỡi bò” – vốn đã bị Toà trọng tài vụ kiện Biển Đông khẳng định trái với UNCLOS vào năm 2016. Trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã quân sự hóa không gian biển và xây dựng các căn cứ quân sự trên Biển Đông. Lực lượng Hải cảnh và dân quân biển Trung Quốc cũng đã có những hành động vượt quá giới hạn và quấy rối Việt Nam và Malaysia trong EEZ của họ.
Tại Biển Đông, Quần đảo Trường Sa là đối tượng tranh chấp của Trung Quốc, Đài Loan, Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam. Tuy nhiên, không giống các yêu sách và hành xử của Trung Quốc, các nước Đông Nam Á đã triển khai các hoạt động phù hợp với luật pháp quốc tế trong các tranh chấp biển. Do đó, đây trở thành cơ hội cho Malaysia, Philippines và Việt Nam xây dựng một cơ chế xây dựng lòng tin không chính thức nhưng hiệu quả tại Trường Sa.
Malaysia và Việt Nam cũng phải hiểu rằng họ cần theo đuổi nỗ lực này mà không có sự tham gia của Trung Quốc, đặc biệt là vì Trung Quốc sẽ không thỏa hiệp với bất kỳ tiến trình nào làm suy yếu tham vọng bành trướng của họ. Cách duy nhất để gây thêm áp lực lên Trung Quốc là Philippines, Malaysia và Việt Nam phải xây dựng một cách tiếp cận không chính thức nhưng nhất quán và thống nhất để quản lý các yêu sách chồng chéo của 3 nước ở Quần đảo Trường Sa. Mục tiêu ban đầu của một khuôn khổ như vậy sẽ không phải là giải quyết các tranh chấp này ngay lập tức – vì bất kỳ giải pháp cụ thể nào cũng cần sự chấp thuận của Trung Quốc – mà là tạo ra các điều kiện phù hợp cho một lập trường thống nhất về quản lý biên giới biển chồng lấn và xây dựng một lập trường thống nhất chống lại chủ nghĩa đơn phương của Trung Quốc.
Cả 3 nước đều phải có tiếng nói bất cứ khi nào Trung Quốc hành động khiêu khích ở bất kỳ khu vực nào của Quần đảo Trường Sa, bất kể ai chiếm đóng hay có chồng lấn các yêu sách hay không. Điều này sẽ khiến Bắc Kinh khó có thể chia Quần đảo Trường Sa thành các khu vực biệt lập, nơi mà họ có thể từng bước thống trị và chiếm đóng từng phần mà không phải lo lắng về chi phí cho hành động hoặc phản ứng tập thể.
Dưới thời Tổng thống Ferdinand Marcos Jr., Philippines đã tích cực nỗ lực bảo vệ EEZ của mình trước các hành động hung hăng của Trung Quốc như tấn công tàu thuyền và thủy thủ đoàn Philippines bằng vòi rồng và các hoạt động đâm va. Hành động của Bắc Kinh nhằm mục đích cảnh báo các bên có tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông không nên bắt chước hành vi của Philippines, tạo ra cảm giác an toàn giả tạo thông qua sự im lặng. Tuy nhiên, các quốc gia như Việt Nam không bị ảnh hưởng bởi sự đe doạ này và đang tích cực triển khai hợp tác trên biển với nhau.
Trong khi Hà Nội và Bắc Kinh vẫn duy trì sự phối hợp ngoại giao linh hoạt, năm qua đã chứng kiến sự khởi đầu của một quá trình xây dựng lòng tin đáng chú ý giữa Việt Nam và Philippines ở Biển Đông. Tháng 1/2024, Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr đã tới thăm Việt Nam. Nhân dịp chuyến thăm này, hai bên đã ký và trao 05 văn kiện hợp tác, trong đó có Bản ghi nhớ Việt Nam – Philippines về phòng ngừa và quản lý sự cố trên Biển Đông và Biên bản ghi nhớ về hợp tác giữa hai lực lượng cảnh sát biển. Hai bên cũng triển khai cuộc tập trận song phương đầu tiên của lực lượng bảo vệ bờ biển tại Manila vào tháng 8/2024 và cuộc tập trận thứ hai vào tháng 4/2025 tại Đà Nẵng.
Indonesia không được coi là bên tranh chấp ở Biển Đông, song yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc có ảnh hưởng đến vùng biển của Indonesia xung quanh quần đảo Natuna. Việc Jakarta và Hà Nội đã nỗ lực đàm phán phân định vùng biển thành công khiến Bắc Kinh tức giận.
Về phía Malaysia, từ năm 1992, Việt Nam và Malaysia đã ký Thoả thuận hợp tác dầu khí trong vùng biển chồng lấn giữa hai nước. Trên cơ sở đó, tập đoàn Petrovietnam của Việt Nam và tập đoàn Petronas của Malaysia đã triển khai hợp tác có hiệu quả và tháng 4/2025, hai bên đã ký kết Thoả thuận nguyên tắc chính gia hạn hợp đồng hợp tác tại khu vực chồng lấn này. Đây được coi là những ví dụ điển hình mà các nước ven Biển Đông cần nhân rộng để đối phó với mưu đồ bành trướng của Bắc Kinh.
Đây là những bước tiến quan trọng, và còn nhiều dư địa để các quốc gia Đông Nam Á có thể đẩy mạnh hợp tác biển hơn nữa. Một số phương hướng để tạo điều kiện thúc đẩy các hợp tác này bao gồm việc 3 nước cần bắt đầu đàm phán để thiết lập các vùng tạm thời cho hoạt động khai thác hải sản và quản lý tài phán chung tại các khu vực chồng lấn. Trong năm 2024, cả Manila và Hà Nội đều khẳng định mong muốn tiến hành trao đổi để phân định vùng biển chồng lấn khi hai nước này đệ trình hồ sơ xác định ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng của mình ở Biển Đông. Đây là tín hiệu tốt mở đường cho hai bên tiến hành đàm phán về vấn đề này.
Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức cộng đồng cũng quan trọng không kém để xây dựng niềm tin và sự hiểu biết ở cấp độ nhà nước và xã hội, đặc biệt là trong cộng đồng ngư dân Philippines, Việt Nam và Malaysia. Nhiều vụ va chạm trên Biển Đông xảy ra giữa ngư dân do họ thiếu hiểu biết về ranh giới biển và luật pháp của các quốc gia ven biển lân cận. Do đó, các hội thảo nhằm mục đích này sẽ giúp hiểu sâu hơn về cư dân của các quốc gia này và thậm chí có thể thúc đẩy sự hội nhập sâu sắc hơn thông qua các mối quan hệ giao lưu nhân dân tốt hơn.
Đồng thời, cả 3 quốc gia Đông Nam Á có yêu sách chủ quyền phải nỗ lực thiết lập các cuộc họp về tuần tra bờ biển thường xuyên nhưng không chính thức và thực hiện các cuộc tuần tra tập thể trên các khu vực biên giới biển chồng lấn của họ. Trong khi Philippines và Việt Nam gần đây đã bắt đầu các cuộc tập trận chung, việc Malaysia tham gia sẽ làm sâu sắc hơn và có ý nghĩa hơn trong việc thể hiện cam kết của các quốc gia Đông Nam Á đối với việc tuân thủ UNCLOS và Điều 4 trong DOC, trong đó kêu gọi giải quyết các tranh chấp còn tồn đọng thông qua “tham vấn và đàm phán hữu nghị giữa các quốc gia có chủ quyền liên quan trực tiếp”, phù hợp với UNCLOS.
Từ năm 2017, hải quân các nước ASEAN đã tiến hành cuộc diễn tập đa phương đầu tiên với sự tham gia của tàu hải quân các nước Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines, Việt Nam, Brunei, Thái Lan, Myanmar, Campuchia dưới sự chủ trì của Thái Lan. Năm 2023, Philippines đã chủ trì cuộc diễn tập hải quân ASEAN lần thứ 2 tại khu vực gần cảng Subic. Tháng 8/2025, Malaysia chủ trì cuộc diễn tập hải quân ASEAN lần thứ 3. Đáng chú ý, tháng 9/2023, dưới sự chủ trì của Indonesia, các nước ASEAN đã tiến hành cuộc tập trận quân sự chung đầu tiên trên biển ở khu vực Nam quần đảo Natuna. Giới chuyên gia cho rằng đây là những tín hiệu tích cực trong hợp tác giữa hải quân các nước ASEAN, song các cuộc diễn tập và tập trận chung trên biển cần được tiến hành thường xuyên hàng năm và khu vực tập trận nên được triển khai trên khắp Biển Đông. Điều này sẽ gửi tới Bắc Kinh môt thông điệp mạnh mẽ về sự đoàn kết của ASEAN trên các vấn đề an ninh ở Biển Đông.
Tuy nhiên, các nhà phân tích nhận định việc các nước ASEAN còn tỏ ra thận trọng và e dè trong các hoạt động chung trên Biển Đông là do yếu tố Trung Quốc; mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia này là liệu họ có đang gửi tín hiệu sai lệch đến Trung Quốc và phải đối mặt với rủi ro lớn hơn hay không. Trong bối cảnh đó, một số điểm cần được nhấn mạnh là: Thứ nhất, đây là sáng kiến do Đông Nam Á dẫn đầu và sở hữu, không liên quan đến các bên ngoài khu vực. Thứ hai, thực tế là cơ chế này sẽ vẫn không chính thức là để đảm bảo rằng không có sự hiểu lầm về mặt chiến lược và cản trở các chuẩn mực không chính thức và mang tính tham vấn xung quanh “Phương thức ASEAN”. Thứ ba, cần có một sự hiểu biết sâu sắc hơn khi giải mã mối liên hệ giữa các cam kết an ninh của Trung Quốc và hợp tác kinh tế của nước này với các nước Đông Nam Á. Việc cho rằng nước này sẽ phụ thuộc trực tiếp vào nước kia là một quan điểm sai lệch và cản trở một Đông Nam Á thống nhất.
Trên thực tế, các hoạt động thương mại của Philippines với Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng bất chấp lập trường tích cực hơn của Philippines về Biển Đông trong việc bảo vệ EEZ của mình dưới thời của Tổng thống đương nhiệm Marcos Jr.. Điều này cũng đúng dưới thời chính quyền tiền nhiệm của Tổng thống Benigno Aquino III, người đã có lập trường cứng rắn chống lại sự hiếu chiến của Trung Quốc khi tiến hành khởi kiện Trung Quốc ra Toà Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS trên vấn đề Biển Đông sau khi Bắc Kinh ngang nghiên chiếm đóng tại Bãi Cạn Scarborough. Một điều cần lưu ý là trong bối cảnh căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc không ngừng leo thang thì Bắc Kinh có thể sẽ “tô vẽ” sự hợp tác giữa 3 nước Malaysia, Philippines, Việt Nam hay giữa các nước ASEAN như một lập trường chống Trung Quốc do Philippines, “kẻ gây rối”, dàn dựng và cố gắng thuyết phục Việt Nam và Malaysia từ bỏ nỗ lực này. Tranh chấp ở Biển Đông rất phức tạp có những vấn đề chỉ liên quan đến hai nước (như Quần đảo Hoàng Sa giữa Việt Nam-Trung Quốc và Bãi cạn Scarborough giữa Philippines-Trung Quốc); có vấn đề liên quan tới nhiều nước (như Quần đảo Trường Sa liên quan tới 5 nước 6 bên, thậm chí vấn đề an ninh hàng hải còn liên quan đến cả các nước ngoài khu vực). Do vậy, vấn đề đặt ra là 3 nước có tranh chấp lớn nhất với Trung Quốc ở Biển Đông là Việt Nam, Philippines, Malaysia cần đi đầu trong các hợp tác chung ở Biển Đông. Từng quốc gia ven Biển Đông có thể tiếp tục đàm phán với Bắc Kinh về các thực thể song phương, chẳng hạn như Bãi cạn Scarborough và Hoàng Sa; tuy nhiên, họ không được bỏ lỡ cơ hội hợp tác chung ở Quần đảo Trường Sa. Làm như vậy có thể ngăn chặn các hoạt động đơn phương của Trung Quốc ở một phần của Biển Đông và buộc Bắc Kinh phải đàm phán công bằng hơn, tạo tiền lệ cho các thực thể khác của vùng biển tranh chấp. Nếu thành công, điều này cũng có thể khuyến khích Brunei củng cố vị thế của mình trong không gian tranh chấp. Do đó, Manila, Hà Nội và Kuala Lumpur phải khai thác ý chí chính trị vì sự ổn định và thịnh vượng lâu dài của khu vực.