Là đối tượng phá hoại chính đối với môi trường biển ở Biển Đông khi thực hiện nạo vét bồi đắp, mở rộng các cấu trúc đang chiếm đóng trong hơn 10 năm qua, song Bắc Kinh lại luôn viện dẫn mục đích bảo vệ môi trường biển để biện minh cho các hoạt động bành trướng của mình tại Biển Đông và thậm chí các vùng biển xa hơn. Giới quan sát nhận định Bắc Kinh không hướng đến việc bảo vệ môi trường biển; đây chỉ là một trong những chiêu bài Bắc Kinh sử dụng để mở rộng lãnh thổ và chiếm đoạt tài nguyên.
Giới luật gia cho rằng, trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt về tài nguyên biển và mối quan tâm ngày càng cao của cộng đồng quốc tế về bảo vệ, bảo tồn môi trường và đa dạng sinh thái biển trước, Trung Quốc đang thúc đẩy các biện pháp và lập luận về môi trường nhằm hiện thực hoá các yêu sách bất hợp pháp. Biển Đông là nơi thể hiện rõ ràng nhất chiến lược này của Trung Quốc, nơi Bắc Kinh không ngừng khẳng định các yêu sách biển trái với luật pháp quốc tế và UNCLOS và đã bị Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS bác bỏ năm 2016.

Bất chấp phán quyết này, Bắc Kinh vẫn thường xuyên viện dẫn lý do môi trường để củng cố các yêu sách bất hợp pháp. Lệnh cấm đánh bắt cá do Bắc Kinh đơn phương áp đặt từ tháng 5 đến tháng 8 hằng năm là một dẫn chứng điển hình. Trung Quốc thường khẳng định lệnh cấm này là nhằm bảo tồn tài nguyên nghề cá, tuy nhiên với phạm vi bao trùm cả EEZ của Philippines và Việt Nam, lệnh cấm này hoàn toàn vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của các các quốc gia này theo UNCLOS. Hàng năm, nhiều quốc gia ở Biển Đông phản đối lệnh cấm đánh bắt cá quá mức này, nhưng Trung Quốc liên tục phản ứng một cách cứng rắn, thể hiện sự coi thường và bất chấp của Bắc Kinh đối với các phán quyết pháp lý quốc tế không phù hợp với lợi ích của mình.
Tương tự, Bắc Kinh biện minh cho các dự án tôn tạo các cấu trúc ở Quần đảo Trường Sa là nhằm bảo vệ môi trường; các đảo nhân tạo và cơ sở hạ tầng đi kèm tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông vận tải hàng hải quốc tế trong khu vực. Tuy nhiên, việc xây dựng các đảo nhân tạo và quân sự hoá các cấu trúc này với những đường băng, cầu cảng lớn đã phá hủy các rạn san hô và hệ sinh thái biển quan trọng. Đây hoàn toàn không phải là đang quản lý, bảo vệ mà chính là hành động phá hoại môi trường biển có tính toán để tạo ra các tiền đồn quân sự và củng cố các yêu sách biển quá mức của Bắc Kinh.
Cái gọi là sự quản lý của Trung Quốc được ngụy trang dưới danh nghĩa bảo vệ môi trường, thực chất chỉ là những nỗ lực nhằm khẳng định và thực thi quyền kiểm soát lãnh thổ và vùng biển. Bằng cách bắt giữ ngư dân nước ngoài, áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá tùy tiện và triển khai lực lượng hải cảnh, dân quân biển dưới chiêu bài bảo tồn biển. Chiến thuật “quyền lực mềm” này cho phép Bắc Kinh từng bước củng cố các yêu sách quá mức của mình mà không cần trực tiếp sử dụng đến xung đột quân sự để thúc đẩy mục tiêu và tham vọng của mình.
Philippines và Việt Nam đã phản đối chiến thuật này của Bắc Kinh, trong khi Malaysia và Indonesia tăng cường sự hiện diện hải quân để đáp lại các cuộc xâm nhập của Bắc Kinh với việc sử dụng chiến tranh pháp lý môi trường. Các quốc gia này coi những biện minh về sinh thái của Bắc Kinh là vỏ bọc cho việc chiếm đoạt lãnh thổ. Các nước này đã kêu gọi việc thực thi UNCLOS mạnh mẽ hơn trên trường quốc tế và tăng cường hợp tác khu vực thông qua các cơ quan như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tuy nhiên, sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc trong khu vực khiến việc đối phó trở thành một vấn đề đầy thách thức đối với các quốc gia nhỏ hơn.
Trung Quốc đã tiêu thụ 60.541 tấn cá vào năm 2022, gấp bốn lần so với quốc gia tiêu thụ cao nhất tiếp theo. Đội tàu đánh bắt xa bờ khổng lồ của Trung Quốc, lớn nhất thế giới, đặt ra một mối đe dọa môi trường đáng kể thông qua hoạt động đánh cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) trên diện rộng. Đội tàu này, được Bắc Kinh trợ cấp, đã làm cạn kiệt nghiêm trọng trữ lượng cá trên toàn cầu, đặc biệt là ở vùng biển của các quốc gia đang phát triển – vốn thiếu nguồn lực để thực thi pháp luật trong vùng EEZ của mình.
Tác động đối với môi trường từ các đội tàu cá Trung Quốc là rất lớn, vì các tàu của Trung Quốc sử dụng các phương pháp phá hoại như lưới kéo đáy, bắt giữ bừa bãi tất cả sinh vật biển trên đường đi và tàn phá các hệ sinh thái mỏng manh. Việc làm cạn kiệt tài nguyên một cách hung hăng này hoàn toàn trái ngược với cam kết đã nêu của Trung Quốc về phát triển bền vững và quản trị đại dương quốc tế, cho thấy một sự đạo đức giả đáng lo ngại.
Mặc dù Trung Quốc đã tham gia các hiệp ước quốc tế như Hiệp định Biện pháp quốc gia có cảng để chống lại hoạt động đánh bắt cá IUU, nhưng quy mô lớn của các hoạt động gây hại và việc báo cáo sản lượng thấp hơn thực tế cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các chính sách đã nêu và các hoạt động thực tế của nước này. Điều này không chỉ làm suy yếu các nỗ lực bảo tồn toàn cầu mà còn tước đoạt các nguồn thực phẩm và sinh kế kinh tế quan trọng của ngư dân các nước ven biển khác, làm nổi bật bản chất không bền vững và bất bình đẳng sâu sắc của dấu chân đánh bắt cá toàn cầu của Trung Quốc.
Trung Quốc biến việc bảo vệ môi trường thành vũ khí không phải xuất phát từ tinh thần trách nhiệm nhân đạo toàn cầu. Đó là một hình thức chiến tranh pháp lý có tính toán và nguy hiểm được thiết kế để mở rộng phạm vi lãnh thổ và khẳng định sự thống trị toàn cầu. Bằng cách lợi dụng những mối quan tâm chung về bảo vệ môi trường, Bắc Kinh đang thao túng luật pháp quốc tế, làm suy yếu chủ quyền các quốc gia ven biển và đe dọa sự ổn định toàn cầu, đồng thời tham gia vào một số hoạt động cải tạo đất và đánh bắt cá phá hoại nhất thế giới.
Tại Biển Đông, một mặt Trung Quốc gia tăng các hoạt động hung hăng xâm lấn, cưỡng ép các nước láng giềng để củng cố hiện diện thực địa. Mặt khác, để tạo dựng hình ảnh một cường quốc có trách nhiệm Trung Quốc triển khai một số dự án bảo vệ sinh thái biển hay nghiên cứu khoa học môi trường ở các vùng tranh chấp, đồng thời tích cực sử dụng diễn ngôn “xanh hóa”, phát triển bền vững, bảo vệ đa dạng sinh học trong công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường biển.
Trung Quốc cũng triển khai các hoạt động bảo tồn sinh thái tại các đảo nhân tạo mà mình chiếm đóng trái phép (đặc biệt tại Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn), đơn phương thiết lập các “khu bảo tồn biển” (Marine Protected Areas – MPA) trong phạm vi yêu sách “đường chín đoạn”; tiến hành các chuyến khảo sát môi trường biển và khai thác tài nguyên sinh học dưới danh nghĩa “nghiên cứu khoa học”, mà thực chất là nhằm xâm phạm vùng biển của các quốc gia khác và gia tăng kiểm soát trên thực địa. Trong khi đó, Bắc Kinh tìm cách ngăn cản các nước ven Biển Đông khác tiến hành nghiên cứu khoa học biển. Gần đây nhất tháng 1/2025, Trung Quốc cho tàu hải cảnh quấy rồi khiến Philippines phải dừng hoạt động khảo sát ở gần đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa hiện đang do Philippines đóng giữ.
Giới phân tích nhận định việc Trung Quốc sử dụng vấn đề môi trường như một công cụ trong chiến lược Biển Đông là một hình thái quyền lực mềm có tính toán, nhằm hợp pháp hóa yêu sách chủ quyền, củng cố hiện diện, và thay đổi thực tế chiến lược theo hướng có lợi cho Bắc Kinh. Đây là một dạng “chiến tranh vùng xám” thông qua sinh thái, mà nếu không được nhận diện và phản ứng kịp thời, có thể dẫn đến hậu quả lâu dài trong việc thiết lập một trật tự biển do Trung Quốc dẫn dắt.
Trong bối cảnh Trung Quốc đang sử dụng yếu tố môi trường để thúc đẩy tham vọng kiểm soát Biển Đông, các chuyên gia pháp lý, nhà hoạch định chính sách và cộng đồng quốc tế phải đoàn kết để vạch trần và chống lại các chiến thuật lừa dối và chiến tranh pháp lý về môi trường. Các quốc gia ASEAN, nhất là những nước có yêu sách, cần nhận thức rõ về chiến lược này, tăng cường hợp tác, phối hợp, xây dựng một chiến lược rõ ràng, kiên quyết nhưng linh hoạt nhằm đối phó với các thách thức từ Trung Quốc trong vấn đề môi trưởng.