Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), nếu không hành động, Việt Nam có thể mất tới 12,5% sản lượng kinh tế vào năm 2050 do biến đổi khí hậu. Thời tiết cực đoan cũng có thể cản trở Việt Nam trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045.

Biến đổi khí hậu cản trở các mục tiêu kinh tế
Nghiên cứu của World Bank tập trung vào 3 kênh tác động chính của biến đổi khí hậu lên nền kinh tế: tổn thất về năng suất lao động do căng thẳng vì nhiệt độ cao; tổn thất về vốn hạ tầng; tổn thất đến nền nông nghiệp.
Trong kịch bản có khả năng xảy ra nhất, biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam bình quân mỗi năm khoảng 0,33 điểm phần trăm trong giai đoạn 2020-2050. Điều này dẫn đến tổn thất tổng sản lượng lên tới 9,1% vào năm 2035 và 12,5% vào năm 2050, so với kịch bản cơ sở.
Nếu không có hành động thích ứng với biến đổi khí hậu, mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045 của Việt Nam sẽ bị lung lay.
Đồng thời, do các tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, tổng thu ngân sách nhà nước có thể giảm, khiến cán cân tài khóa có thể thâm hụt khoảng 0,8% GDP vào năm 2050.
World Bank dự báo tỷ lệ nghèo của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm, nhưng biến đổi khí hậu có thể làm đảo ngược một số thành tựu giảm nghèo. Ví dụ, tình trạng xâm mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long có thể gây ra tổn thất thu nhập đáng kể kéo dài, khiến cho kết quả giảm nghèo bị chững lại vào năm 2050.
Đầu tư cho các biện pháp thích ứng, tuy phải chi tiêu lớn, nhưng có thể giảm thiệt hại kinh tế. Nhu cầu đầu tư tăng thêm cho thích ứng trong các lĩnh vực nông nghiệp, hạ tầng và bảo vệ vốn nhân lực trong giai đoạn 2025 – 2050 ước lên đến 233 tỷ USD, tương đương 0,75% GDP bình quân mỗi năm. Theo World Bank, đầu tư thích ứng như vậy có thể giúp giảm tổn thất GDP ở mức 5,8 điểm phần trăm – từ 12,5% xuống còn 6,7% vào năm 2050.
Một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất
Việt Nam là một trong những quốc gia có nguy cơ dễ tổn thương nhất với biến đổi khí hậu trên thế giới. Theo Germanwatch, Việt Nam xếp thứ 13 trên toàn cầu về rủi ro khí hậu trong năm 2019. Kể từ năm 1960, nhiệt độ trung bình hàng năm đã tăng 0,5°C–0,7°C, nhiệt độ tăng lên nhanh nhất ở miền Nam và khu vực Tây Nguyên.
Các đợt nắng nóng, ngập lụt, bão và mực nước biển dâng cao không chỉ là thách thức về môi trường, mà còn đe dọa các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, như nông nghiệp và vận tải, cũng như các trung tâm đô thị và công nghiệp.
Tại các vùng nông thôn, ngành nông nghiệp của Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc do nhiệt độ, biến động về lượng mưa và bão gia tăng. Trong giai đoạn 1990–2019, nhiệt độ cứ tăng thêm 1% thì chỉ số sản xuất nông nghiệp bị giảm ước khoảng 3% trong dài hạn.
Biến động về lượng mưa cũng gây tác động nhiều mặt đến sản xuất theo vùng miền, khi hạn hán tăng lên ở Tây Nguyên làm giảm mạnh sản lượng cà phê, lượng mưa quá lớn ở Đồng bằng sông Hồng làm tăng rủi ro ngập lụt, gây hại cho cây lúa và hoa màu.
Trong thời gian tới, các dự báo cho thấy mực nước biển dâng thêm 75 – 100cm sẽ gây ngập lụt cho 47,3% Đồng bằng sông Cửu Long vào giữa thế kỷ, đe dọa đến triển vọng kinh tế và khiến cho những thách thức về xâm nhập mặn trở nên tồi tệ hơn.
Các đô thị cùng những trung tâm công nghiệp và xuất khẩu của Việt Nam cũng đang đối mặt với rủi ro ngày càng lớn từ biến đổi khí hậu, bao gồm nắng nóng cực đoan, bão mạnh, mưa lớn và ngập lụt.
Theo nghiên cứu năm 2024 của World Bank, 71% doanh nghiệp may mặc và 74% doanh nghiệp điện tử đang hoạt động ở những địa bàn có rủi ro lớn về căng thẳng do nhiệt độ cao, khiến cho 1,3 triệu lao động có nguy cơ dễ tổn thương( 70% trong đó là nữ giới).
Chẳng hạn, thành phố Hải Phòng – trung tâm công nghiệp và xuất khẩu trọng điểm, đồng thời là nơi đặt nhiều cảng chính của cả nước – đã chịu thiệt hại khoảng 955 triệu USD chỉ riêng từ cơn bão Yagi, khi chuỗi cung ứng bị gián đoạn do mất điện và mất liên lạc.
T.P