Thời gian gần đây, Trung Quốc tìm rất nhiều cách để khẳng định chủ quyền Biển Đông một cách sai lệch đến thế giới, đặc biệt qua phim ảnh, truyền thông, xuyên tạc Công ước Luật Biển năm 1982 của LHQ (UNCLOS 82). Trong bối cảnh đó, việc làm rõ vấn đề Biển Đông dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế, đặc biệt là (UNCLOS 82) là vấn đề cấp bách.
Hội nghị Luật Biển lần thứ III của LHQ (1967- 1982) đã thông qua UNCLOS 82 với 320 điều khoản và 9 phụ lục. Công ước xác lập rõ ràng quy chế pháp lý của các vùng biển khác nhau thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển, quy định quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khi tiến hành các hoạt động liên quan đến biển và thành lập một loạt cơ chế quốc tế quan trọng liên quan đến thực hiện Công ước và giải quyết tranh chấp biển như Tòa án Luật Biển quốc tế, Hội nghị các quốc gia thành viên của Công ước, Cơ quan Quyền lực quốc tế về Đáy Đại dương và Ủy ban Thềm lục địa. Đến nay, đã có 161 quốc gia và tổ chức quốc tế tham gia Công ước này, trong đó có 7 quốc gia ven Biển Đông là Việt Nam, Trung Quốc, Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Xinhgapo, Brunây.
Áp dụng UNCLOS 82 vào điều kiện cụ thể của biển Đông, mỗi quốc gia ven biển Đông có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa tối thiểu 200 hải lý của mình. Chiều rộng của hai vùng biển này đều được đo từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải. Trường hợp thềm lục địa thực tế lớn hơn 200 hải lý thì quốc gia ven biển Đông có thể mở rộng thềm lục địa đến 350 hải lý với điều kiện tuân thủ các quy định và thủ tục trong Công ước. Mỗi quốc gia ven biển Đông có toàn quyền thăm dò, khai thác các tài nguyên trong vùng biển của mình, đặc biệt là trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, để phục vụ đời sống nhân dân và phát triển đất nước; có toàn quyền quyết định cho phép hay không cho phép các quốc gia khác khai thác tài nguyên trong các vùng biển của mình; có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền đó của các quốc gia láng giềng ven biển Đông. Đồng thời, có nghĩa vụ tôn trọng quyền của các quốc gia khác được tự do hàng hải, tự do hàng không trong vùng đặc quyền kinh tế và vùng trời trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa quốc gia ven biển.
Cũng xuất phát từ UNCLOS 82 thì sự kiện Trung Quốc ký hợp đồng với Công ty Creston năm 1992 ở bãi Tư Chính của Việt Nam và chính thức đưa yêu sách “Đường lưỡi bò” ra LHQ vào tháng 5/2009 cần được nhìn nhận thế nào? Khu vực bãi Tư Chính hoàn toàn nằm trong phạm vi thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam và đã được Việt Nam phân lô thăm dò dầu khí. Việc Công ty Dầu khí quốc gia Trung Quốc vào năm 1992 ký với Công ty Creston của Mỹ hợp đồng thăm dò dầu khí tại khu vực bãi Tư Chính trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam (mà họ đặt tên là Vạn An Bắc) là sự vi phạm trắng trợn chủ quyền của Việt Nam theo UNCLOS 82.
Còn về yêu sách “Đường lưỡi bò” hay “Đường 9 đoạn”, thì các học giả Trung Quốc đều biết rõ là tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông ở Hà Nội (2009) và Tp. Hồ Chí Minh (2010) cũng như các Hội thảo quốc tế khác, các học giả quốc tế đã nêu rõ yêu sách “Đường lưỡi bò” là không có cơ sở. Trung Quốc cần giải thích rõ bản chất pháp lý của các vùng biển trong “Đường lưỡi bò” nhưng đến nay, cả chính giới lẫn học giả Trung Quốc đều không thể đưa ra các câu trả lời thỏa đáng.
T.P