Điểm nhấn là khu lấn biển với diện tích khoảng 50.000ha để mở rộng không gian phát triển của tỉnh.
Bến Tre sẽ có khu lấn biển
Sáng ngày 5/12/2023, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bến Tre tổ chức Hội nghị công bố Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Bến Tre là tỉnh thứ 22 của cả nước và là tỉnh thứ 7 của vùng Đồng bằng sông Cửu Long được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh.
Phát biểu khai mạc hội nghị, Chủ tịch UBND tỉnh Trần Ngọc Tam cho biết, ngày 13/01/2023, Hội đồng thẩm định Quy hoạch tỉnh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã tổ chức thẩm định Quy hoạch tỉnh Bến Tre. Tại phiên họp, 100% thành viên Hội đồng thông qua quy hoạch có điều chỉnh, bổ sung. Căn cứ Báo cáo thẩm định của Hội đồng và các ý kiến đóng góp, Ủy ban nhân dân tỉnh đã nghiêm túc tiếp thu, điều chỉnh, bổ sung, giải trình đầy đủ và hoàn thiện hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
“Quy hoạch tỉnh Bến Tre được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là cơ sở quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội, trong đó ưu tiên phát triển mạnh về hướng Đông với điểm nhấn là khu lấn biển với diện tích khoảng 50.000ha để mở rộng không gian phát triển của tỉnh, nhằm phấn đấu đến năm 2030 tỉnh Bến Tre trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước; và đặc biệt hướng đến mục tiêu xuyên suốt của Lãnh đạo tỉnh Bến Tre qua các thời kỳ là Người dân có cuộc sống văn minh, ấm no, hạnh phúc. Qua đó, tạo nền tảng để đến năm 2050, Bến Tre thực hiện đạt được mục tiêu là tỉnh phát triển thịnh vượng, trở thành nơi đáng sống.
Quy hoạch tỉnh Bến Tre cũng là cơ hội để các nhà đầu tư, doanh nghiệp đến tìm hiểu, nghiên cứu và quyết định đầu tư, phát triển tại Bến Tre; từ đó chúng ta cùng nhau hiện thực hóa mục tiêu, chiến lược phát triển tỉnh nhà trong tương lai”, ông Tam chia sẻ.
Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Theo nội dung quy hoạch, phấn đấu đến năm 2030, Bến Tre trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước; có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội đồng bộ; tập trung phát triển kinh tế biển; công nghiệp chế biến, chế tạo và năng lượng mới gắn bảo vệ môi trường, sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu; có đô thị hiện đại, nông thôn giàu bản sắc, du lịch thân thiện; quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; người dân có cuộc sống văn minh, ấm no, hạnh phúc.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân đạt 10 – 10,5%/năm. Tỷ trọng trong GRDP của ngành công nghiệp – xây dựng chiếm khoảng 31 – 33%; ngành dịch vụ chiếm khoảng 44 – 46%; ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 17 – 19%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp chiếm khoảng 3 – 5%; GRDP bình quân đầu người đạt trên 170 triệu đồng. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng bình quân 13,5 – 14,5%/năm.
Tầm nhìn đến năm 2050, Bến Tre là tỉnh phát triển thịnh vượng, trở thành nơi đáng sống có hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, môi trường sống xanh, sạch; phấn đấu trở thành đơn vị hành chính đô thị loại I đặc thù, đô thị vệ tinh của Thành phố Hồ Chí Minh; các trụ cột tăng trưởng có trình độ phát triển cao và trở thành động lực phát triển quan trọng của vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước; xã hội phát triển hài hòa, văn minh, hiện đại; môi trường, trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn và cảnh quan thiên nhiên được gìn giữ; con người phát triển toàn diện, có cuộc sống phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Phương án tổ chức hoạt động kinh tế – xã hội của tỉnh Bến Tre được tổ chức thành 3 vùng kinh tế – xã hội và 5 hành lang kinh tế.
Đối với 3 vùng kinh tế – xã hội gồm Vùng ven biển phía Đông của tỉnh (gồm huyện Ba Tri, huyện Bình Đại, huyện Thạnh Phú và không gian biển thuộc địa phận tỉnh Bến Tre) là vùng động lực phát triển của tỉnh, đột phá là các ngành kinh tế biển, ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực công nghiệp; năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; nuôi trồng, khai thác và chế biến hải sản theo hướng công nghệ cao; kinh tế hàng hải (vận tải biển); dịch vụ và du lịch; vui chơi giải trí, sân golf; phát triển khu, cụm công nghiệp; xây dựng các đô thị xanh, thông minh, bền vững gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa bảo tồn và phát triển.
Vùng Bắc sông Hàm Luông (gồm thành phố Bến Tre, huyện Châu Thành, huyện Giồng Trôm) tập trung phát triển Đô thị – Dịch vụ – Công nghiệp – Nông nghiệp theo hướng công nghệ cao (trụ cột là công nghiệp – đô thị vệ tinh cho các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh). Khai thác tối đa lợi thế các trục hành lang kinh tế đi qua trục thành phố Bến Tre – đô thị Giồng Trôm – đô thị Ba Tri; trục đô thị Chợ Lách – đô thị Châu Thành – đô thị Bình Đại; trục đô thị Châu Thành – thành phố Bến Tre – đô thị Mỏ Cày.
Vùng Nam sông Hàm Luông (gồm các huyện Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam và Chợ Lách) tập trung phát triển Công nghiệp – Dịch vụ – Nông nghiệp theo hướng công nghệ cao (trụ cột là kinh tế nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái). Khai thác hiệu quả 2 hành lang kinh tế đi qua: Trục đô thị Chợ Lách – đô thị Mỏ Cày – đô thị Thạnh Phú; trục đô thị Châu Thành – thành phố Bến Tre – đô thị Mỏ Cày.
Năm hành lang kinh tế gồm 3 Hành lang phát triển theo hướng Tây – Đông (Hành lang kinh tế hướng Đông) gồm: Hành lang kinh tế dọc theo trục chính quốc lộ 57B; hành lang kinh tế dọc theo trục chính quốc lộ 57C; hành lang kinh tế dọc theo trục chính quốc lộ 57. Hành lang kinh tế này trọng tâm phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, du lịch sinh thái, thương mại dịch vụ, đô thị.
2 hành lang phát triển theo hướng Bắc – Nam gồm hành lang kinh tế dọc theo quốc lộ 60, đường cao tốc CT33 và hành lang kinh tế dọc theo tuyến đường ven biển kết nối các đô thị ven biển thuộc 3 huyện (Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú) và gắn kết nối khu vực ven biển các tỉnh Trà Vinh, Tiền Giang và Thành phố Hồ Chí Minh. Tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, dịch vụ logistics, cảng biển, du lịch sinh thái biển, phát triển các khu vui chơi giải trí cao cấp, sân golf, phát triển các đô thị xanh, thông minh.
T.P