BienDong.Net: Hội Châu Á (Asia Society) và Trường Hành chính công Lý Quang Diệu thuộc Đại học Quốc gia Singapore (NUS) vừa phối hợp tổ chức Hội thảo về Biển Đông từ ngày 13 đến 15.3.2013 tại New York. Đây là Hội thảo có tính học thuật, nhưng qua đó có thể thấy được lập trường và chính sách của các nước liên quan.
BDN xin giới thiệu ý kiến của TS. Vũ Quang Việt, nguyên chuyên viên cao cấp LHQ, người từng có nhiều năm nghiên cứu về vấn đề Biển Đông xung quanh cuộc hội thảo này qua bài đăng trên báo Đất Việt.
Luật Biển và vụ kiện của Philippines
Các chuyên gia Luật quốc tế, trừ giáo sư Luật ở Đại học Thanh Hoa TQ, tham dự hội thảo cho rằng việc Philippines kiện Trung Quốc là đúng và theo Công ước LHQ về Luật Biển 1982 (UNCLOS = Luật Biển), Chủ tịch Tòa án Luật Biển của Liên hợp quốc (LHQ) sẽ phải cử ra 5 thành viên để xét xử, bất chấp việc Trung Quốc từ chối tham gia.
Yêu cầu của Philippines dựa trên Điều 287 và Phụ lục VII của UNCLOS, theo đó Tòa án Trọng tài (Arbitration Tribunal) sẽ phải được thành lập để diễn giải (interpretation) một số vấn đề mà Philippines nêu ra, trong đó đáng chú ý có:
Yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc xâm phạm Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines (chỉ cách đảo Luzon 50 hải lý, và cách đảo Palawan 30 hải lý) là vi phạm UNCLOS. Các hoạt động của Trung Quốc ở đây đang cản trở Philippines thực thi các quyền hợp pháp của mình. Việc Trung Quốc lập thành phố Tam Sa để quản lý vùng biển trong “Đường 9 đoạn”, đồng thời đòi hỏi tàu thuyền của các nước khi đi vào khu vực này phải xin phép là vi phạm UNCLOS.
Một số cấu trúc tự nhiên nằm trong và ngoài EEZ của Philippines không có EEZ của chính nó, vì khi thủy triều lên chúng bị chìm dưới nước và một số chỉ là ‘đá’ vì quá nhỏ không duy trì được sự sống tự nhiên của con người, vì vậy chỉ có hải phận 12 hải lý.
Đường 9 đoạn phi pháp do Trung Quốc tự vẽ bao chiếm hầu hết Biển Đông (Ảnh Internet)
Philippines cho rằng họ đã hội đủ điều kiện theo điều 298 của UNCLOS để yêu cầu thành lập Tòa án hòa giải vì:
– Họ đã thất bại trong mọi biện pháp thương lượng trực tiếp với TQ;
– Họ không yêu cầu hoà giải liên quan đến chủ quyền hay xem xét phân chia chủ quyền trong vùng chồng lấn.
Theo Phụ lục VII, nếu một bên không chịu thụ lý, bên kia vẫn có quyền yêu cầu thiết lập Tòa hòa giải, với 5 quan tòa do Chủ tịch Tòa án Luật biển chỉ định và có quyền ra phán quyết. Phán quyết coi như cuối cùng; bên bị không có quyền yêu cầu xem xét lại.
Tòa hòa giải sẽ phải qua hai giai đoạn, sau khi Philippines có yêu cầu chính thức tiếp tục thủ tục hòa giải cho dù Trung Quốc đã chính thức từ chối tham gia. Giai đoạn một là xem xét tòa có thẩm quyền giải quyết những vấn đề mà Philippines đặt ra hay không. Giai đoạn hai là xét xử và đưa ra phán quyết. Hiện vẫn chưa rõ liệu Tòa sẽ quyết định thụ lý vấn đề nào, nhưng điểm đáng quan tâm nhất là liệu Tòa có đồng ý thụ lý vấn đề “Đường 9 đoạn” hay không.
Các chuyên gia uy tín về luật quốc tế tham dự hội thảo, như GS Jerome Cohen ở Đại học New York và GS Robert Beckman ở NUS ủng hộ vụ kiện này của Philippines. Ông Cohen còn nói rằng Việt Nam cũng nên làm thế. Tuy nhiên Giáo sư người Singapore lại cho rằng việc Philippines không tham khảo ý kiến của ASEAN trước khi kiện có thể gây tổn hại cho sự thống nhất của tổ chức này. Đại sứ Philippines đã phản bác quan điểm này và cho rằng Philippines phải vệ quyền lợi của đất nước họ, không thể chờ đợi ASEAN đi đến đồng thuận, điều có thể không bao giờ xảy ra.
Vai trò của ASEAN và chính sách của Mỹ
Mỹ đã từng muốn ASEAN có vai trò đi đầu trong các vấn đề liên quan tới Biển Đông, nhưng do quan điểm của các nước thành viên không thống nhất với nhau nên vai trò của ASEAN đang bị suy giảm.
Theo GS người Singapore, ASEAN chỉ là một tổ chức trung lập, đứng ra kiểm soát vấn đề xung đột, chứ không nhằm đưa ra giải pháp, nghĩa là ASEAN chỉ cố gắng tạo dựng sự hợp tác, tin cậy và khuyến khích không dùng võ lực trong giải quyết tranh chấp mà thôi. ASEAN hiện chưa có quan điểm chung về vấn đề Biển Đông, nhưng nếu Trung Quốc lấn tới, ASEAN bắt buộc phải có thái độ.
Mỹ đang chuyển trọng tâm về châu Á-Thái Bình Dương và muốn ASEAN đi đầu trong các vấn đề an ninh khu vực. Khi đó Mỹ sẽ đứng phía sau và ủng hộ các quyết sách của ASEAN. Tuy nhiên do ASEAN chưa thống nhất được quan điểm, nên Mỹ mất chỗ dựa. Hiện nay Mỹ đang phải dựa chủ yếu vào các đồng minh, nhưng nếu Trung Quốc đi quá đà, ví dụ sử dụng vũ lực đối với đồng minh của Mỹ, Wasinhton sẽ phải hành động.
Tại hội thảo, các học giả Mỹ đã nhấn mạnh về tuyên bố Wasington trung lập trong vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và chỉ muốn bảo đảm tự do đi lại cho tàu thuyền của các nước mà thôi. Phía Mỹ nhấn mạnh rằng hiện nay Mỹ và Trung Quốc vẫn chưa thiết lập được quan hệ chặt chẽ, chưa thiết lập được đường dây nóng giữa các lãnh đạo cấp cao, kể cả cấp bộ trưởng quốc phòng hai nước, nên nguy cơ hiểu lầm, tính toán sai lầm, biến đụng độ nhỏ trở thành đụng độ lớn, vẫn còn cao.
Lập trường của Trung Quốc
Trái với mong mỏi của dư luận, Thiếu tướng Chu Thành Hổ (Zhu Chenghu), Hiệu trưởng Học viện Quốc phòng, Trường Đại học Quốc phòng, Trung Quốc cho rằng hiện không phải là thời điểm phù hợp để đi tới thoả thuận về Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Ông Chu cũng nói lấp lửng rằng đa số dân chúng Trung Quốc muốn Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc, nhưng né tránh nói rõ quan điểm của Bắc Kinh.
Tướng Chu cũng nói rằng Trung Quốc muốn “giữ hiện trạng”, nhưng nhiều người cho rằng cần phải xác định rõ “giữ hiện trạng” là gì. Ví dụ việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, đơn phương ra lệnh cấm đánh cá gần Hoàng Sa, Trường Sa có phải là “giữ hiện trạng” không? Trung Quốc đã từng chiếm Hoàng Sa năm 1974 và đánh chiếm đảo Gạc Ma từ Việt Nam năm 1988 rồi nay lại kêu gọi “giữ hiện trạng” thì có hợp lý không?
Thay lời kết
Không ai rõ ý đồ thực sự của Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh có thể triển khai ba ý đồ sau:
1. Làm chủ tài nguyên bằng cách xây dựng và tràn ngập Biển Đông bằng lực lượng hải quân và không quân, để bảo vệ việc khai thác tài nguyên biển, đặc biệt là dầu khí. Họ có thể để tầu bè các nước đi lại tự do, kể cả việc chấp nhận để lực lượng quân sự Mỹ đi lại thám thính trong vùng EEZ. Họ sẽ không khai chiến mà chỉ nhử các lực lượng yếu hơn khai chiến.
2. Triển khai điểm 1 cũng là quá trình tiến tới kiểm soát biển Đông Nam Á, qua đó trở thành bá chủ, đẩy Mỹ ra khỏi khu vực.
3. Chỉ trong trường hợp không thể triển khai hai ý đồ trên, Trung Quốc mới có thể đi tới thỏa thuận khai thác chung tài nguyên với các nước nhỏ ở khu vực. Tuy nhiên ở đây các nước cần cảnh giác với quan điểm “Chủ quyền thuộc ta, gác tranh chấp, cùng nhau khai thác” của Đặng Tiểu Bình đưa ra trước đây.
Chỉ hợp tác khi chấp nhận chủ quyền thuộc Trung Quốc là điều không thể triển khai được. Hợp tác giữa Philippines -Trung Quốc-Việt Nam bị hủy năm 2007 vì nơi Trung Quốc muốn hợp tác là vùng chồng lấn giữa “Đường 9 đoạn” và EEZ của nước khác.
Chưa biết Mỹ sẽ phản ứng như thế nào, nhưng nếu chỉ nhằm vào khẩu hiệu “tự do đi lại trên biển” thì không đủ để đối phó với hai ý đồ lớn nói trên của Trung Quốc. Dù sao chính sách chuyển trọng tâm sang Châu Á-Thái Bình Dương cũng đã được chính quyền Obama đưa ra.
Trong vụ Philippines kiện Trung Quốc, khả năng Trung Quốc thua kiện là khá cao. Vụ kiện này sẽ giúp thế giới thấy rõ hơn bản chất của Trung Quốc, sẵn sàng dùng áp lực và bạo lực, bất chấp luật pháp quốc tế, trong đó có Luật Biển mà chính họ đã tham gia. Con đường pháp lý cũng có thể là biện pháp để Việt Nam bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình một cách hợp pháp và hòa bình. Kiện Trung Quốc không phải là hành động thù địch. Các luật gia trong hội thảo đều khuyến khích điều này.
Việt Nam, Philippines và Brunei cũng cần giải quyết những tranh chấp giữa ba nước, vì một số đảo, đá, bãi ngầm mà các bên tuyên bố chủ quyền nằm trong EEZ của nhau.
TS. Vũ Quang Việt