Saturday, November 23, 2024
Trang chủGóc nhìn mớiVị trí chiến lược 15 nhà giàn và 7 bãi ngầm của...

Vị trí chiến lược 15 nhà giàn và 7 bãi ngầm của Việt Nam hiện nay

Từ năm 1985, Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Hải quân Việt Nam, đã dự báo, trong tương lai gần vùng biển khu vực Trường Sa sẽ không bình yên. Các cuộc xâm lược Việt Nam phần lớn đến từ đường biển nên cần phải bảo vệ đất nước từ hướng biển. Ý tưởng xây dựng nhà nổi bắt đầu hình thành. Những nhà giàn xây dựng trên bãi san hô, nền đất bùn yếu với mực nước sâu hàng chục mét, công trình chưa từng có tiền lệ trên thế giới.

Ảnh minh họa

Sau sự kiện Gạc Ma ngày 14/3/1988, Việt Nam càng khẳng định chắc chắn Trung Quốc sẽ còn tiếp tục bành trướng sang các khu vực khác ở các đảo ở quần đảo Trường Sa, cũng như có thể nhòm ngó sang các khu vực khác ở Biển Đông, đặc biệt là vùng biển trên thềm lục địa phía nam. Đây là khu vực có tiềm năng lớn về dầu khí, hải sản và có ý nghĩa chiến lược về an ninh quốc phòng với Việt Nam. Tình hình ngày càng thêm cấp bách khi một số tàu chiến và tàu thăm dò của Trung Quốc đã bắt đầu xuất hiện sâu trong khu vực này. Với tầm nhìn chiến lược, Việt Nam đã khảo sát trong thềm lục địa phía nam Biển Đông để tìm vị trí phù hợp đặt các nhà giàn, và đã phát hiện 7 bãi đá ngầm và bãi ngầm. Hiện nay, Việt Nam đã đặt 15 nhà giàn trên bảy bãi ngầm này.

  1. Bãi Tư Chính. Trong số 6 bãi đá ngầm san hô ở phía Nam của quần đảo Trường Sa, Tư Chính là bãi ngầm xa nhất về phía Nam, có điểm gần nhất đường cơ sở khoảng 296 km, cách thành phố Vũng Tàu khoảng 414 km và cách huyện Côn Đảo khoảng 350 km về phía Đông Nam. Đối với quần đảo Trường Sa, bãi Tư Chính cách đảo Trường Sa lớn khoảng 247 km về phía Tây Nam, cách đảo An Bang khoảng 328 km về phía Tây. Bãi có chiều dài 62 km, rộng 11km và có diện tích khoảng 500 đến 700 km. Tuy nhiên, phần mặt bằng dạng quan sát được bằng mắt thường chỉ khoảng 33,88 km2. Không giống như các đảo chìm và quần đảo Trường Sa, nơi nông nhất của bãi Tư Chính là nằm ở đầu mút phía Bắc, độ sâu khoảng 16 m. Bãi này. có nhiều cuộc đụng độ nhất kể từ năm 1992 đến nay là vùng dầu khí lớn, nên nhiều nước có ý định tự ý thăm dò. Tháng 5/1992, một công ty dầu khí Mỹ được Trung Quốc cấp quyền thăm dò dầu khí tại khu vực cạnh Bãi Tư Chính (mà Trung Quốc gọi là Vạn An Bắc). Đồng thời, Trung Quốc cũng ký hợp đồng giao 5.076 km2 biển tại Bãi Tư Chính cho doanh nghiệp này và công ty dầu khí này tuyên bố Hải quân Trung Quốc bảo vệ hoạt động của họ.

Việt Nam một mặt phản ứng mạnh đối với động thái trên, một mặt cấp quyền một lô dầu khí đó cho hãng Mobil cũng của Mỹ. Mặt khác, lôi kéo sự quan tâm của phía Nga và ở đây đã có một vài vụ đụng độ ngắn ngủi của hải quân khi tàu của hai công ty Crestone và Mobil tới vùng biển trên.

Đến năm 1994, Crestone của Trung Quốc ký hợp đồng có kế hoạch thăm dò lô Vạn An Bắc 21 nhưng đứng trước sự đe dọa can thiệp vũ lực của Việt Nam, công ty này lại phải gác ý định. Cũng trong năm này, Việt Nam thuê công ty Vietsovpetro của Nga tìm cách khoan một giếng dầu trong khu vực. Nhưng khi đó, đã bị Trung Quốc bao vây giàn khoan nhằm ngăn chặn tiếp tế.

Cuối tháng 7/2017, công ty Talisman Việt Nam bị Trung Quốc gây áp lực phải hủy bỏ hoạt động thăm dò mỏ khí lớn nhất tại lô 13603 mà phía Trung Quốc gọi là Vạn An Bắc 21. Mặc dù họ đã đầu tư khoảng 300 triệu USD vào thương vụ này.

Ngày 18/6/2019, tàu cảnh sát biển được trang bị vũ khí hạng nặng mang ký hiệu 3511 của Trung Quốc đang neo đậu cách Bãi Tư Chính 40 dặm về phía Tây đã thực hiện các hành vi khiêu khích xung quanh giàn khoan Hakuryu-5 thuê của Nhật Bản ở lô 06-01 thuộc dự án Nam Côn Sơn liên doanh của Việt Nam với Nga.

Tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 thuộc quyền quản lý và sử dụng của Chính phủ Trung Quốc đã đi vào vùng biển với khu vực Bãi Tư Chính. Trong lúc đó, cũng có sự xuất hiện của tàu cảnh sát biển Việt Nam ở khu vực này để thực hiện các hoạt động cần thiết để bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của mình.

  1. Bãi Phúc Nguyên. Bãi ngầm này đặt theo tên của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên của chính quyền Đàng Trong. Bãi ngầm này chỉ cách Bãi Tư Chính khoảng 24 km về phía Bắc, cách Bãi Vũng Mây khoảng 165 km về phía Tây và cách Đá Lát khoảng 187 km về phía Tây Nam. Bãi ngầm có chiều dài khoảng 28 km và chiều rộng khoảng 20km, còn diện tích phần mặt bằng dạng quan sát được là 9,53 km2. Ở phía Tây của bãi, sâu ít nhất là 18 m và có những chỗ sâu từ hai đến 24 m.
  2. Bãi Quế Đường. Bãi ngầm này nằm cách bãi Vũng Mây khoảng 114 km về phía Tây, cách Bãi Tư Chính khoảng 60km về phía Đông Bắc, cách bãi Phúc Nguyên khoảng 41 km về phía Đông, cách Bãi Phúc Tần khoảng 24 km về phía Nam và cách bãi Huyền Chân khoảng 20km về phía Tây Nam. Đây là một bãi ngầm có chiều dài khoảng 10km và chiều rộng 4,5 km và có diện tích phần mặt bằng quan sát được là khoảng 27,6 km2. Bãi ngầm có độ sâu từ 11 -15 m và nơi nông nhất là ở phía Đông của bãi.
  3. Bãi Vũng Mây. Là bãi ngầm nằm xa nhất về phía Đông. Bãi ngầm này hoàn toàn chìm ngập dưới nước, cách đất liền Việt Nam 260 hải lý về phía Đông Nam, cách Bãi Tư Chính 40 hải lý về phía Nam, cách đảo An Bang 70 hải lý về phía Tây và cách đảo Borneo 230 hải lý về phía Tây Bắc. Bãi Vũng Mây là dạng san hô vòng lõm ở giữa có chiều dài khoảng 60km và rộng 27km, diện tích lên tới 130 km2.

Tuy nhiên, phần mặt bằng dạng quan sát được vào mắt thường chỉ khoảng 59,655 km². Rìa ngoài của bãi thoải dần ra đến độ sâu là 200 m, sau đó độ sâu đáy biển biến đổi nhanh chóng.

Tại đây có một số bãi đá nằm trên vành san hô đã được đặt tên, như Đá Ba Kè, Bãi Đất, Bãi Kim Phụng, Bãi Đại Nội, Bãi Đinh và Bãi Ngự Bình. Các bãi đá này có độ sâu từ 3 -11 m. Nơi nông nhất trong bãi Vũng Mây là đá Ba Kè ở phía Bắc có độ sâu là 3,2 m dưới mực nước biển. Với Vũng Mây, ba nước Việt Nam, Trung Quốc, Brunei đều tuyên bố chủ quyền.

Đối với Việt Nam, theo điều 80 của UNCLOS năm 1982, Việt Nam có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Còn đối với Trung Quốc, bãi này gọi là bãi Nam Vi. Trung Quốc xem bãi Vũng Mây là một phần của quần đảo Nam Sa, đồng thời xem quần đảo Nam Sa là một bộ phận lãnh thổ bất khả xâm phạm nào của Trung Quốc. Đối với Brunei, bản đồ do Brunei xuất bản năm 1988 thể hiện rằng thềm lục địa mở rộng 350 hải lý của nước này bao trùm bãi Vũng Mây. Đòi hỏi của Brunei được nhận xét là không phù hợp với UNCLOS do thềm lục địa nước này bị Biển Đông Palawan làm gián đoạn sự kéo dài tự nhiên.

  1. Bãi Phúc Tần. Tên bãi ngầm này được đặt theo tên của một vị Chúa Nguyễn có công khai phá và mở mang bờ cõi vùng đất Phương Nam, là Nguyễn Phúc Tần.

Về vị trí, bãi Phúc Tần nằm cách bờ biển Đồi Nhái của Vũng Tàu khoảng 438 km và cách Hòn Hải nơi có đường cơ sở khoảng 250 km về phía Đông Nam, cách Đá Lát khoảng 128 km về phía Tây Nam, cách bãi Vũng Mây khoảng 120km về phía Tây Bắc, cách bãi Tư Chính khoảng 78 km và cách bãi Phúc Nguyên khoảng 43 km về phía Đông Bắc.

Bãi Phúc Tần là một rạn san hô vòng có chiều dài khoảng 20km, chiều rộng khoảng 10km và có diện tích phần mặt bằng dạng quan sát được vào khoảng 37 km2. Ở bên trong bãi Phúc Tần có một lòng hồ có diện tích khoảng 137km. Nơi nông nhất của bãi này nằm ở phía Tây và có độ sâu là 7,3 m.

  1. Bãi Huyền Chân. Bãi Huyền Trân chỉ cách bãi Phúc Tần khoảng 6,5km về phía Đông Nam. Bãi này được đặt tên theo Huyền Trân, công chúa con gái của vua Trần Nhân Tông. Về mặt cấu trúc, bãi Huyền Trân là một rạn san hô vòng có chiều dài khoảng 8,2km, chiều rộng khoảng 5,7km. Nơi đông nhất của bãi này có độ sâu là 5,3 m và có diện tích phần mặt bằng dạng quan sát là khoảng 32,61km2.

Ở bên trong bãi Huyền Trân có một lòng hồ có diện tích khoảng 18,02km2. Việt Nam tuyên bố bãi Huyền Trân nằm trên thềm lục địa phía Nam, không thuộc quần đảo Trường Sa và bác bỏ sự gán ghép bãi này vào quần đảo Trường Sa. Đài Loan và Trung Quốc quan niệm bãi này thuộc quần đảo Nam Sa. Toàn bộ sáu bãi ngầm này đều thuộc thềm lục địa và nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Về mặt hành chính, các bãi này thuộc phạm vi quản lý của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và không liên quan gì tới quần đảo Trường Sa.

  1. Bãi Cà Mau. Còn gọi là Bãi Cạn Cà Mau, là một bãi ngầm trong Vịnh Thái Lan. Bãi ngầm này nằm về phía Tây Nam của Mũi Cà Mau, ở tọa độ 8 độ 14 phút 10 giây Bắc, 104 độ 48 phút 40 giây Đông. Theo các tài liệu của truyền thông, Bãi Cà Mau cách Mũi Cà Mau 110 hải lý, tức là khoảng 204 km. Điểm gần nhất cách Mũi Cà Mau là 72 hải lý, tức là khoảng 130 km.

Trong một số bản đồ quốc tế, bãi Cà Mau nằm ngay trên khu vực của Vịnh Thái Lan và cách Mũi Cà Mau từ 46 – 91km. Bãi Cà Mau có chiều dài khoảng 105km và chiều rộng lớn nhất vào khoảng 30km, với tổng diện tích lên đến hơn 1000km2. Còn độ sâu dao động từ 14,6 đến 18,3 m. Về mặt hành chính và vị trí, Bãi Cà Mau thuộc phạm vi quản lý của tỉnh Cà Mau.

Dựa trên những kết quả nghiên cứu địa chất với sự giúp đỡ của Liên Xô về tìm kiếm và thăm dò dầu khí ở Việt Nam ở thềm lục địa phía nam được tiến hành vào những năm 1970, chúng ta đã xác định được tại Biển Đông có rất nhiều mỏ dầu và túi dầu. Nhưng tại Bãi Tư Chính, Vũng Mây và Nam Côn Sơn ở phía Nam Biển Đông mới là những túi dầu lớn nhất của Biển Đông.

Do đó, các bãi ngầm này có vị trí chiến lược rất quan trọng khi chúng nằm gần sát nhất với các mỏ dầu và mỏ khí lớn Việt Nam đang khai thác hiện nay như là Đại Hùng, Lan Tây, Lan Đỏ, Mộc Tinh, Hải Thạch, Rồng Đôi… Đặc biệt là Bãi ngầm Tư Chính và bãi ngầm Vũng Mây được ví như hàng rào và tiền đồn bảo vệ vùng dầu khí Việt Nam.

Việt Nam đã ý thức rõ điều đó và đi trước một bước cả về chiến lược lẫn chiến thuật trong việc khẳng định chủ quyền biển. Sau khi phát hiện ra bảy bãi ngầm, ngày 17/10/1988, Việt Nam đã tiến hành xây dựng các công trình trên tất cả các bãi đá ngầm với tên gọi là Trạm dịch vụ Kinh tế Khoa học Kỹ thuật, gọi tắt là công trình DK1.

DK1 được xây dựng dưới dạng các nhà giàn với nhiệm vụ lập các đèn biển để cảnh báo cho các tàu cá và tàu vận tải hàng hải, đặt trạm nghiên cứu khí tượng thủy văn, làm nơi tránh trú bão và ứng cứu ngư dân. Nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất của DK1 chính là chốt giữ và bảo vệ chủ quyền thềm lục địa phía nam của Tổ quốc; bảo vệ việc khai thác tài nguyên thềm lục địa.

Tháng 12/1988, Việt Nam đã làm việc với Liên Doanh Dầu Khí Vietsovpetro về kế hoạch xây dựng các công trình nhà giàn DK1. Việt Nam đã cử lực lượng gấp rút để ra xây dựng công trình trên biển với yêu cầu là phải bí mật và nhanh gọn. Từ ngày mùng 10 – 15/6/1989, Việt Nam đã tiến hành xây dựng xong nhà giàn đầu tiên tại Bãi Phúc Tần. Đây là nhà giàn được khảo sát ở vị trí số 3 nên được gọi là nhà giàn DK 1/3. Ngay sau khi nhà giàn được xây dựng xong, một phân đội thuộc Lữ Đoàn 171 Hải Quân Việt Nam ra bám trụ tại nhà giàn. Một ngày sau đó, tức là ngày 16/6/1989, nhà giàn DK 1/4 tại Vũng Mây cũng đã được hoàn thành.

Đến ngày 27/6/1989, Việt Nam cũng đã hoàn thành nhà giàn DK 1/1 tại bãi Tư Chính. Tiếp đó, hai nhà giàn DK 1/5 và nhà giàn DK1/6 lần lượt được xây dựng tại bãi Tư Chính và bãi Phúc Nguyên vào tháng 11 cùng năm.

Sau những sự cố tại nhà giàn bãi Phúc Tần, Vũng Mây và Phúc Nguyên, Việt Nam có thêm nhiều kinh nghiệm và tiếp tục xây dựng thêm các nhà giàn ở các bãi ngầm khác trước sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trên Biển Đông. Đây là các nhà giàn thế hệ thứ hai, thay cho mẫu nhà giàn cũ trước đó. Nó được thiết kế với bốn cọc thép cắm xuống nền đá san hô và bê tông cứng, bên trên là hai nhà tầng có kết cấu vững chắc, có thể chống chọi chịu sóng trên cấp 12. Tuy vậy, các nhà giàn vẫn là những cơ sở mong manh giữa biển.

Ngày 12/12/1988, cơn bão Phây có sức gió dập trên cấp 12 đã khiến cho nhà giàn Phúc Nguyên 2A đã bị sóng đánh sập và cuốn trôi, khiến chín chiến sĩ rơi xuống biển và làm ba chiến sĩ hy sinh. Nhà giàn Phúc Nguyên 2A là nhà giàn thế hệ thứ hai được xây dựng trên cơ sở nhà giàn DK 1/6 thế hệ cũ, cũng từng bị bão giật sập năm 1990.

Với tai nạn của nhà giàn Phúc Nguyên 2A, Việt Nam đã chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng các nhà giàn được xây dựng trên nền thiết kế cũ là nhà giàn DK 1/1 và nhà giàn DK 1/5 tại bãi Tư Chính. Nhìn chung, năm nhà giàn đầu tiên được xây dựng của đều đã không còn hoạt động. Tính đến hiện tại mẫu nhà giàn thế hệ mới cũng đã được xây dựng tại hầu hết các bãi ngầm này và đây có thể được coi là thế hệ nhà giàn thứ ba, bởi nó được xây dựng với kinh nghiệm cùng kỹ thuật tiên tiến hơn bên cạnh những nhà giàn thế hệ thứ hai đã xuống cấp.

Mẫu nhà giàn mới này có thiết kế rộng rãi và vững chắc hơn khi ứng dụng kết cấu liên hoàn theo mẫu giàn khoan nước sâu, có thể chịu đựng được những trận sóng to, gió lớn quanh năm giữa Biển Đông. Các phòng trên nhà giàn có kết cấu liên hoàn thoáng mát, hệ thống cọc móng của nhà giàn có từ bốn đến sáu chân cắm sâu từ bề mặt đáy san hô xuống 3 đến 40 m để giữ vững cho toàn bộ khối nhà bên trên. Những nhà giàn thế hệ thứ hai vẫn được giữ lại và chúng sẽ được nối với những nhà giàn mới bằng một cây cầu thép dài khoảng 50 m. Trên nóc nhà giàn được xây dựng sân bay trực thăng để phục vụ các đoàn nghiên cứu và ứng phó với các tình huống khẩn cấp.

Ước tính từ năm 1989 – 1998, có tất cả 20 nhà giàn đã được xây dựng trên thềm lục địa. Tuy nhiên, do sự khắc nghiệt của biển và thiên tai tàn phá liên tục, mặt khác, do ban đầu Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm bảo đảm về kỹ thuật trong xây dựng cũng như gia cố và sửa chữa, nên tính đến năm 2000, đã có năm nhà giàn bị đổ sập. Còn lại 15 nhà giàn hoạt động cho đến ngày nay, trong đó có tám nhà giàn có bãi đỗ trực thăng trên nóc, bốn nhà giàn có hải đăng và một nhà giàn có trạm quan trắc khí tượng.

Việc phân bố các nhà giàn hiện nay như thế nào?

Tại bãi Huyền Trân hiện có một nhà giàn đang hoạt động, trong đó là nhà giàn DK 1/7, còn gọi là nhà giàn Huyền Trân, hoàn thành vào ngày 11/11/1991. Đây là nhà giàn có ngọn Hải Đăng và trạm quan sát khí tượng Huyền Trân.

Tại bãi Quế Đường hiện có hai nhà giàn, là nhà giàn DK 1/8, hay còn gọi là nhà giàn Quế Đường A, là nhà giàn có ngọn hải đăng Quế Đường, được xây dựng vào ngày 4/11/1991, và nhà giàn DK 1/19, hay còn gọi là nhà giàn Quế Đường B, hoàn thành vào ngày 10/4/1997.

Tại bãi Phúc Nguyên, sau hai sự cố sập nhà giàn lần lượt vào năm 1990 và năm 1998, hiện chỉ còn một nhà giàn hoạt động là nhà giàn DK 1/15, hay còn gọi là nhà giàn Phúc Nguyên 2, xây dựng vào tháng 4/1995. Trong khi tại bãi Phúc Tần, sau khi nhà giàn đầu tiên bị sập vào năm 1990, trong giai đoạn từ năm 1993 – 1997, Việt Nam đã xây dựng thêm bốn nhà giàn và hiện bốn nhà giàn vẫn đang hoạt động. Phúc Tần hiện cũng là bãi ngầm có số lượng nhà giàn đang còn hoạt động nhiều nhất so với các bãi còn lại.

Tại Bãi Tư Chính, sau khi xây dựng nhà giàn DK 1/1, tức là nhà giàn Tư Chính A, vào năm 1989, một năm sau đó, Việt Nam xây một nhà giàn nữa theo cách chặn đầu khóa đuôi là nhà giàn DK 1/5, tức là nhà giàn Tư Chính B. Trong giai đoạn từ năm 1994 – 1995, có thêm ba nhà giàn DK 1/11, DK 1/12, DK 1/14. Tuy nhiên, sau tai nạn nhà giàn Phúc Nguyên 2A bị sóng đánh sập và cuốn trôi, Việt Nam chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng các nhà giàn được xây dựng trên nền thiết kế cũ tại bãi Tư Chính là DK 1/1 và DK 1/5.

Hiện tại, chỉ còn ba nhà giàn nằm ở trung tâm và phía Bắc của bãi là nhà giàn DK 1/11, DK 1/12 và DK 1/14. Tại bãi Tư Chính, còn có hai ngọn hải đăng và Tổng Công ty Bảo đảm an toàn hàng hải Miền Nam thuộc Bộ Giao thông vận tải. Cả hai ngọn hải đăng đều có chiều cao tháp là 22m, tầm hiệu lực chiếu sáng 22km với ánh sáng trắng, trong đó, một ngọn hải đăng chớp nhóm hai chu kỳ 13 giây và một ngọn hải đăng chớp nhóm ba chu kỳ 8 giây.

Từ năm 1993 – 1998, Việt Nam đã xây dựng thêm ba nhà giàn tại Vũng Mây, sau khi nhà giàn DK 1/4 tại bãi này bị sóng đánh sập vào năm 1990. Theo đó, cách Đá Ba Kè , khoảng 10km về phía Nam, là nhà giàn DK 1/9, tức là nhà giàn Ba Kè B, được hoàn thành vào ngày 22/8/1993. Năm năm sau đó, hai nhà giàn DK 1/20, tức là nhà giàn Ba Kè C, và nhà giàn DK 1/21, tức là nhà giàn Ba Kè D, lần lượt được hoàn thành tại trung tâm phía Đông và phía Nam của Bãi Vũng Mây. Đây cũng là ba nhà giàn nằm xa đất liền nhất trong hệ thống các nhà giàn DK1 của Việt Nam.

Trong hệ thống 15 nhà giàn DK1, có lẽ từ việc xây dựng đến hiện trạng ngày nay, nhà giàn DK 1/10 tại Bãi Cà Mau vẫn là khác biệt nhất so với 14 nhà giàn còn lại được xây dựng sau.

Cuộc đụng độ với Hải quân Thái Lan, ngày 5/4/1994. DK1/10 còn gọi là nhà giàn bãi cạn Cà Mau, có được bãi đỗ trực thăng trên nóc. Vì đóng quân ở vùng biển phía Tây Nam, nên DK 1/10 còn được gọi là nhà giàn của chân trời, hay nhà giàn góc biển. Và nó được xem như là một cột mốc khẳng định chủ quyền Việt Nam trên vùng biển phía Tây Nam.

Trong giai đoạn từ năm 2010 – 2016, 14 nhà giàn DK1 trên sáu bãi ngầm ở phía Nam của đảo Trường Sa đã được sửa chữa và xây dựng thêm nhà giàn thế hệ thứ ba. Nhưng cho đến nay, nhà giàn DK 1/10 thuộc khu vực Bãi Cạn Cà Mau vẫn chưa có được hệ thống nhà giàn thế hệ mới này còn sử dụng ròng rọc kéo tay.

Hiện nay, cuộc sống quân nhân tại các nhà giàn đã được cải thiện hơn. Mỗi nhà giàn hiện nay được trang bị hơn 100 tấm pin năng lượng mặt trời, đủ để cấp điện cho huấn luyện, sinh hoạt liên tục từ 3-5 ngày trong điều kiện mưa bão hay không có ánh nắng mặt trời. Nhờ vậy, vào những ngày thời tiết xấu, các chiến sĩ trên giàn vẫn có điều kiện để nấu cơm, chạy tủ lạnh, xem tivi. Tại đây cũng đã được phủ sóng mạng điện thoại Vinasat và truyền hình K+. Đa số nhà giàn đều trang bị máy lọc nước biển để cải thiện tình trạng thiếu nước sinh hoạt cũng như nước canh tác rau xanh.

Bên cạnh nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển thềm lục địa phía Nam, các nhà giàn còn thực hiện thu nhập số liệu về khí hậu, thời tiết và thủy văn để phục vụ nghiên cứu biển, cũng như hỗ trợ và giúp đỡ ngư dân ra đánh bắt hải sản và tham gia tìm kiếm cứu nạn trên biển. Gần 40 năm đã trôi qua, cũng là bấy nhiêu mùa bão gió phong ba, nhưng các nhà giàn DK1 vẫn hiên ngang sừng sững giữa biển trời.

T.P

RELATED ARTICLES

Tin mới