Báo cáo Công tác Chính phủ thường niên của Trung Quốc tại kỳ họp Quốc hội đầu tháng 3 năm nay một lần nữa nhấn mạnh 3 sáng kiến then chốt là Sáng kiến An ninh Toàn cầu (GSI), Sáng kiến Phát triển Toàn cầu (GDI) và Sáng kiến Văn minh Toàn cầu (GCI) phản ánh tầm nhìn của Trung Quốc về một chương mới của quan hệ toàn cầu.
Trong đó, giới chuyên gia đặc biệt quan tâm tới Sáng kiến An ninh Toàn cầu (GSI) bởi nó thể hiện cách tiếp cận của Trung Quốc đối với các thách thức an ninh trong phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc và trên toàn cầu.
Nhìn sơ bộ Sáng kiến An ninh Toàn cầu (GSI) của Trung Quốc là nhằm hướng tới một thế giới hòa bình và phát triển bền vững, song trên thực tế giới phân tích đang có những đánh giá khác nhau về mục tiêu thực sự của Bắc Kinh liên quan đến sáng kiến này bởi lời nói thường không đi đôi với việc làm của giới cầm quyền ở Bắc Kinh. Trong khi một số quốc gia hoan nghênh GSI như một công cụ tích cực giúp giảm xung đột và đối đầu thì một số khác hoài nghi về động cơ, tính toán chiến lược của Trung Quốc nhằm mở rộng phạm vi ảnh hưởng khi thúc đẩy GSI. Chúng ta cùng đi nghiên cứu sâu hơn về Sáng kiến An ninh Toàn cầu của Trung Quốc để có sự đánh giá một cách thực tế hơn.
Sáng kiến An ninh toàn cầu (GSI) được Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra tại Diễn đàn châu Á Bác Ngao, tỉnh Hải Nam hôm 21/4/2022 (được tổ chức dưới hình thức trực tuyến). Trong đó ông Tập đề cao “nguyên tắc an ninh không thể tách rời, xây dựng cấu trúc an ninh cân bằng, hiệu quả và bền vững, đồng thời phản đối một nước xây dựng an ninh quốc gia trên cơ sở gây mất an ninh cho các nước khác”. Đáng chú ý, ông Tập nhấn mạnh thế giới nên tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mọi quốc gia, đồng thời chú ý tới những quan ngại “chính đáng” về an ninh của tất cả các nước. Tuy nhiên, Chủ tịch Trung Quốc không đề cập chi tiết cách thức thực hiện sáng kiến an ninh này.
Giới phân tích chỉ ra rằng nguyên tắc “an ninh không thể tách rời” thường được hiểu là an ninh của một quốc gia không thể tách biệt với các nước khác trong khu vực. Khái niệm này từng được Tổng thống Nga Vladimir Putin viện dẫn khi phản đối NATO mở rộng về phía đông để phát động chiến dịch quân sự ở nước láng giềng Ukraine. Các nhà phân tích lưu ý đây là lần đầu Trung Quốc đề cập tới “an ninh không thể tách rời” bên ngoài bối cảnh cuộc khủng hoảng Nga – Ukraine, dường như nhằm ám chỉ các hoạt động của Mỹ tại châu Á.
Tiếp đó, vào tháng 7/2022, tại Jakarta, trong khuôn khổ chuyến công du một số nước Đông Nam Á, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã có bài phát biểu giới thiệu Sáng kiến An ninh toàn cầu (GSI). Ông Vương Nghị bày tỏ Bắc Kinh sẽ làm việc với các nước ASEAN để thực hiện hợp tác GSI trong các lĩnh vực ưu tiên như chống khủng bố, tìm kiếm và cứu nạn hàng hải chung, quản lý thiên tai và chống tội phạm xuyên quốc gia, qua đó nâng cao hợp tác an ninh giữa Trung Quốc-ASEAN. Kể từ khi Tập Cận Bình chính thức đưa ra sáng kiến này, đây là lần đầu tiên người đứng đầu ngành ngoại giao Trung Quốc đưa ra những giải thích về GSI với các nước Đông Nam Á. Điều này cho thấy Bắc Kinh đang tìm cách tranh thủ ASEAN trong việc thúc đẩy sàng kiến này.
Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra những sáng kiến mang tính bao trùm lên khu vực và toàn cầu. Ngay từ những năm 1990, Trung Quốc đã đưa ra Khái niệm An ninh mới nhằm thâm nhập có chọn lọc tại từng quốc gia Đông Nam Á. Dưới thời Tập Cận Bình, Trung Quốc đã đưa ra sáng kiến “Vành đai, Con đường” nhằm mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ra khắp các châu lục. Mối khi đưa ra các sáng kiến, các giới chức Bắc Kinh đều đưa ra những lời giải thích “mỹ miều” nhằm thể hiện cái gọi là “tinh thần hợp tác thiện chí” của Bắc Kinh. Tuy nhiên, trên thực tế không phải vậy, sáng kiến “Vành đai, Con đường” đã trở thành “bẫy nợ” đối với nhiều quốc gia, thậm chí đã đưa một số nước trở thành “thuộc địa kiểu mới” của Trung Quốc. Sáng kiến An ninh toàn cầu mà Tập Cận Bình đưa ra cũng có cùng mục tiêu là đưa Trung Quốc trở thành cường quốc số 1 thế giới. Do vậy, giới chuyên gia cho rằng Sáng kiến An ninh Toàn cầu của Trung Quốc chính là mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh toàn cầu, đồng thời cảnh báo rằng thế giới đừng tin vào những gì Trung Quốc nói mà hãy xem họ làm những gì.
Một là, Trung Quốc thường “nói một đằng làm một nẻo”. Trong một động thái hướng tới chủ nghĩa toàn cầu do Trung Quốc lãnh đạo, ông Tập nói rằng thế giới nên “chấp nhận một triết lý quản trị toàn cầu” và các quốc gia phải “bảo vệ vững chắc hệ thống quốc tế với cốt lõi là Liên hợp quốc và trật tự quốc tế với nền tảng là luật pháp quốc tế”. Thế nhưng Bắc Kinh lại chính là kẻ vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế khi sử dụng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974; gây ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 và tiếp tục dùng vũ lực đánh chiếm 6 cấu trúc ở quần đảo Trường Sa năm 1988. Đặc biệt, thường xuyên uy hiếp đe dọa sử dụng vũ lực đánh chiếm Đài Loan.
Tập Cận Bình nói về việc ủng hộ Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế nhưng Bắc Kinh đã từ chối lên án cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine hoặc cuộc đảo chính ở Myanmar đã lật đổ người đạt giải Nobel Hòa bình Aung San Suu Kyi. Khi đề cập an ninh toàn cầu và cải cách “hệ thống quản trị an ninh của thế giới”, Nhà lãnh đạo Trung Quốc đã sử dụng cụm từ “toàn vẹn lãnh thổ”, song chính Bắc Kinh là kẻ không tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ với các nước láng giềng khi đã từng xâm lần, gây ra tranh chấp, xung đột với hầu hết các nước có chung đường biên giới với Trung Quốc, thậm chí đã phát động chiến tranh xâm phạm lãnh thổ và vùng biển của các nước láng giềng.
Nói về tôn trọng luật pháp quốc tế và bảo vệ Liên hợp quốc, song chính Trung Quốc là kẻ phá hoại Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982 khi xuyên tạc, bóp méo những nội dung của UNCLOS; không chấp nhận các cơ chế giải quyết tranh chấp của Liên hợp quốc; phản đối phán quyết năm 2016 về Biển Đông của Tòa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS. Một số chuyên gia cho rằng xét cục diện ở Biển Đông thì Trung Quốc lại chính là kẻ phạm luật pháp quốc tế nhiều, thậm chí trà đạp lên luật pháp quốc tế.
Hai là, thông qua Sáng kiến này, Trung Quốc tham vọng thiết lập vai trò lãnh đạo toàn cầu của mình một cách toàn diện hơn. Điều này đã và đang thách thức cấu trúc an ninh toàn cầu do Mỹ và các đồng minh thiết lập từ nhiều năm nay. Giới phân tích nhận định trong tương lai, chính sách đối ngoại của Trung Quốc sẽ ngày càng được xác định rõ ràng hơn bằng sự khẳng định lợi ích của nước này và khám phá những con đường mới dẫn đến sức mạnh toàn cầu, vượt qua được các điểm nghẽn do phương Tây kiểm soát.
Trong khi không tiếc lời đổ lỗi cho Mỹ về hầu hết các tệ nạn trên thế giới, bao gồm cả những ‘thói xấu’ mà Trung Quốc mắc phải, Bắc Kinh không ngừng ca ngợi Sáng kiến An ninh toàn cầu của Tập. Trong bài phát biểu khai mạc tại Diễn đàn Bác Ngao và các tuyên bố sau đó được đăng tải trên truyền thông nhà nước Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị của Trung Quốc không ngượng ngùng ca ngợi về Sáng kiến An ninh toàn cầu khi nói rằng “sáng kiến này đóng góp trí tuệ của Trung Quốc để bù đắp cho thâm hụt hòa bình hiện nay”.
Vào hùa với những giọng điệu đó, truyền thông Trung Quốc còn lớn tiếng nói rằng “Trung Quốc sẽ không bao giờ tuyên bố quyền bá chủ, tìm kiếm sự bành trướng hoặc phạm vi ảnh hưởng, cũng như không tham gia vào một cuộc chạy đua vũ trang”. Thế nhưng trên thực tế Bắc Kinh liên tục có những hành vi xâm phạm vùng biển của các nước láng giềng ven Biển Đông, uy hiếp đe dọa tàu thuyền nước ngoài trên Biển Đông, ngăn cản các hoạt động thăm dó khai thác dầu khí hợp pháp của các nước ở Biển Đông.
Ba là, Trung Quốc tăng mạnh ngân sách quốc phòng với tham vọng đưa Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc thành lực lượng mạnh hàng đầu thế giới phải chăng là để thúc đẩy Sáng kiến An ninh toàn cầu như ông Tập Cận Bình đề ra? Giới chuyên gia quân sự đều cho rằng mục tiêu hiện đại hóa mạnh mẽ quân đội của Trung Quốc, nhất là lực lượng hải quân là nhằm phục vụ cho cái gọi là “Giấc mộng Trung Hoa” do chính ông Tập đề ra, tiến tới thống trị toàn cầu, đưa Trung Quốc trở thành “trung tâm của thế giới.
Giới quan sát cho rằng thực chat Sáng kiến An ninh toàn cầu của Tập Cận Bình không có gì mới mẻ và rất mơ hồ. Ông Jude Blanchette, chuyên gia về Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và quốc tế ở Washington, cho rằng Sáng kiến mới này của ông Tập có thể là nỗ lực quảng bá chính sách đối ngoại của Bắc Kinh như một giải pháp cho bất ổn toàn cầu hiện nay để ngụy biện cho những toan tính bá quyền, đaị hán của giới cầm quyền ở Bắc Kinh.
Với Biển Đông, việc đẩy mạnh quân sự hóa của Trung Quốc đồng thời tìm cách đẩy Mỹ và các nước khác ra khỏi Biển Đông không phải là để đảm bảo an ninh cho khu vực mà là để Bắc Kinh dễ bề hoành hành bắt nạt, cưỡng ép các nước nhỏ bé trong khu vực. Giới phân tích cảnh báo với Sáng kiến An ninh toàn cầu mà ông Tập đưa ra, Bắc Kinh có thể theo gót Moscow viện dẫn cái gọi là “an ninh không thể tách rời” để phát động chiến dịch quân sự ở Biển Đông. Ông Li Mingjiang, phó giáo sư Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore nói rằng “Nếu Trung Quốc cho rằng Mỹ và đồng minh phớt lờ quan ngại an ninh của Bắc Kinh trong vấn đề Đài Loan và Biển Đông, họ có thể viện dẫn khái niệm ‘an ninh không thể tách rời’ để tìm biện pháp đáp trả”. Từ góc độ này có thể thấy Sáng kiến An ninh toàn cầu đang tạo ra mối đe dọa đối với an ninh ở Biển Đông.
Trên thực tế, kể từ khi Tập Cận Bình đưa ra Sáng kiến An ninh toàn cầu, tình hình Biển Đông hoàn toàn không bình yên mà ngược lại căng thẳng giữa Bắc Kinh và Manila trong 1 năm qua không ngừng leo thang, các tàu hải cảnh của Trung Quốc nhiều lần phun vòi rồng, đâm va vào các tàu công vụ đang thực hiện nhiệm vụ tiếp tế ở Biển Đông, thậm chí làm bị thương các thủy thủ trên tàu của Philippines. Giới chuyên gia cho rằng trọng tâm của GSI là ưu tiên chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, do vậy Trung Quốc sẽ không từ bỏ các yêu sách phi lý của họ ở Biển Đông mà sẽ dùng mọi thủ đoạn để thực hiện tham vọng của mình. Các nước ven Biển Đông không thể ảo tưởng về những lời mỹ miều của Tập Cận Bình trong GSI. Những lời mĩ miều trong GSI chỉ là để che đậy, lấp liếm cho những hành vi hung hăng của Bắc Kinh đang thực hiện với các nước láng giềng ven Biển Đông và những gì đang diễn ra trong vùng biển của Philippines là minh chứng rõ ràng nhất.
Ngay cả Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim – người luôn khẳng định Malaysia sẽ tiếp tục duy trì mối quan hệ hợp tác tốt đẹp với Trung Quốc – khi nói về Sáng kiến An ninh toàn cầu của Trung Quốc thì một mặt thừa nhận tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc đối với khu vực, mặt khác khẳng định kiên quyết bảo vệ chủ quyền đất nước. Các nhà phân tích cho rằng nền tảng giúp Bắc Kinh triển khai thành GSI công phụ thuộc vào niềm tin của các quốc gia đối với việc Trung Quốc sẽ hiện thực hóa các cam kết, cũng như các nguyên tắc chung mang tính cốt lõi của sáng kiến. Và để cải thiện niềm tin đó, trước hết Trung Quốc cần dừng ngay các hành vi hung hăng, cưỡng ép, bắt nạt các nước láng giềng, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các nước ven Biển Đông được xác định theo UNCLOS. Đây là yếu tố quyết định cho sự thành công của Sáng kiến An ninh toàn cầu mà ông Tập đưa ra. Đánh giá về Sáng kiến An ninh toàn cầu của Trung Quốc, Giáo sư chính trị quốc tế Brad Glosserman, Đại học Tama ở Tokyo, kiêm cố vấn tại Diễn đàn Thái Bình Dương (Pacific Forum), cho rằng một nước Trung Hoa vẫn rao giảng về “một thế giới thịnh vượng, hài hòa và hòa bình” đang hành động ngược lại với “những hù dọa, quấy rối bằng vũ trang ngày càng gia tăng” trong khu vực. Đây phải chăng là một nhận định khách quan nhất.