Hầu hết những nhà nghiên cứu có am hiểu về Biển Đông đều thừa nhận, ngoài giá trị vô cùng quan trọng về địa chiến lược, Biển Đông còn có giá trị rất lớn về địa kinh tế, nghĩa là vùng biển này chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, có tính chất sống còn đối với sự phát triển kinh tế của các nước trong và ngoài khu vực.
Riêng về lĩnh vực năng lượng, Biển Đông được đánh giá là một trong năm “rốn” dầu lớn nhất của thế giới với các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí rất khả quan là các bồn trũng Brunei – Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Bằng chứng là hiện nay, bên cạnh Trung Quốc, hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á đều có các hoạt động khai thác và sản xuất dầu khí từ Biển Đông, trong đó Indonesia là thành viên của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC).

Theo Bộ Năng lượng Mỹ, trữ lượng dầu mỏ ở Biển Đông là khoảng 11 tỷ thùng và 5.380 tỷ mét khối khí đốt tự nhiên. Còn theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Trong khi các chuyên gia Nga lại cho biết, khu vực Hoàng Sa và Trường Sa còn “cất giấu” lượng lớn khí đốt đóng băng được gọi là băng cháy. Loại tài nguyên này trên toàn cầu có trữ lượng ngang bằng với dầu khí và được xem là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Ngoài ra, nhiều thông tin tiết lộ, Biển Đông có nguồn đất hiếm “khủng” hơn gấp hàng trăm lần lượng đất hiếm trên đất liền của Trung Quốc. Điều này cho thấy, giá trị kinh tế của Biển Đông không chỉ có trên mặt nước, trong lòng biển, trên không, mà lớn hơn cả là những nguồn tài nguyên nằm sâu dưới đáy biển. Do đó, không ít nhà nghiên cứu đã cho rằng, “cuộc chiến” về năng lượng mới là “căn nguyên” chính của vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Hiện nay, chưa có đánh giá nào khẳng định quốc gia nào chiếm được nhiều nguồn năng lượng nhất ở Biển Đông. Nhưng Trung Quốc đang là nước có nhiều lợi thế hơn cả trên khía cạnh địa lý và sự phát triển kinh tế, khoa học công nghệ phục vụ cho hoạt động thăm dò, khai thác các nguồn năng lượng ở Biển Đông. Ngoài ra, Bắc Kinh còn có một lợi thế chủ quan khác là đã tận dụng thời cơ, sử dụng sức mạnh để “chiếm đoạt” chủ quyền hợp pháp của các nước khác trong khu vực Biển Đông, tạo ra “sự đã rồi”, đặt các nước này vào thế rất khó để giành lại. Ví dụ điển hình là quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam hay bãi cạn Scarbrough của Philippines đã bị họ chiếm đoạt. Thế rồi, Trung Quốc lại dựa vào sự “chiếm đoạt” và “cưỡng chế” trên để lấn tới trong tham vọng giành quyền kiểm soát nguồn năng lượng ở Biển Đông. Theo cách hiểu đó, Trung Quốc đã và đang nắm giữ các lợi thế cơ bản sau.
Thứ nhất, lợi thế về địa lý tự nhiên và việc sớm ra tay thực hiện tham vọng về “chủ quyền”
Xem xét về mặt khách quan, Biển Đông nằm ở phía nam lục địa Trung Hoa, có đường tiếp giáp với đất liền Trung Quốc rất dài, khoảng 14.500km. Dọc theo đường bờ biển này, Trung Quốc có 34 cảng biển chính, hơn 2.000 cảng biển nhỏ, là một trong các quốc gia có cảng biển nhiều nhất thế giới. Đây rõ ràng là lợi thế rất lớn cho Trung Quốc thuận lợi khai thác “cửa ngõ” thông ra biển để triển khai các hoạt động thăm dò, khai thác và vận chuyển các nguồn tài nguyên tiềm năng dưới đáy biển nói chung trong đó có năng lượng như dầu mỏ, khí đốt tự nhiên ở Biển Đông nói riêng.
Về mặt chủ quan, bằng cách sớm thực hiện tham vọng “độc chiếm Biển Đông” trong nhiều thập kỷ qua, Trung Quốc đã tạo ra thêm nhiều lợi thế hơn trong việc mở rộng quyền kiểm soát nguồn năng lượng ở Biển Đông, đồng thời gây ra bất lợi cho nhiều nước khác. Ngay từ năm 1951, tại Hội nghị San Francisco, Bắc Kinh đã chớp cơ hội cộng đồng quốc tế họp bàn phân chia lại chủ quyền, lãnh thổ các nước châu Á bị phát xít Nhật chiếm đóng để đưa ra tuyên bố đầu tiên về vấn đề này. Yêu sách đó được Ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa đẩy lên cao hơn vào năm 1997, khi đòi “ôm” lấy cả vùng lãnh thổ Borneo của Malaysisa và tuyên bố rằng, “chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông là điều không thể đàm phán”. Song dù “lớn tiếng” như vậy, Bắc Kinh không hề có “bằng chứng hữu hiệu” về “chủ quyền” này. Phải đến ngày 07/5/2009, một ngày sau khi Malaysia và Việt Nam đệ trình Báo cáo chung đăng ký thềm lục địa mở rộng khu vực phía Nam Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc (CLCS), Bắc Kinh mới “trưng” ra cái gọi là “chứng cứ lịch sử”: Họ gửi công hàm lên Liên hợp quốc phản đối Báo cáo chung của Malaysia và Việt Nam, trong đó đính kèm tấm bản đồ “đường chín khúc”, bao trùm hơn 80% diện tích Biển Đông, chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Song thực chất, đó là tấm bản đồ “đường mười một đoạn”, do chính quyền Tưởng Giới Thạch thời Cộng hòa Trung Hoa “phóng tác” năm 1947, không có tọa độ cụ thể nào cả, trong đó “hai đoạn” bao trùm Vịnh Bắc Bộ đã bị xóa bỏ vào năm 1953. “Chứng cứ lịch sử” này phi lý đến mức ngay cả một số học giả nghiên cứu có tiếng ở Trung Quốc cũng phải thừa nhận là “không thể chấp nhận được, vì đây là một cái đường vô lý do Trung Quốc tự vẽ ra”.
Không dừng lại ở đó, Bắc Kinh còn dùng khái niệm “lợi ích cốt lõi” thuộc chủ quyền quốc gia và quy thuộc Biển Đông nằm trong phạm vi khái niệm này, tương tự như các điểm nóng Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan mà tại đó, họ xác định sẽ không “thỏa hiệp”, “có thể sử dụng vũ lực nếu thấy cần thiết”.
Để thúc đẩy tham vọng của mình, Bắc Kinh còn quyết tâm biến Biển Đông thành “ao nhà” thông qua triển khai nhiều giải pháp hành động thực tế khác nhau, đó là: 1/ Luật hóa chủ quyền nhằm hướng lái dư luận trong nước và quốc tế. Năm 1996, ngay sau khi ký UNCLOS 1982, Trung Quốc lập tức đưa ra điều khoản bảo lưu “các quyền lịch sử” thuộc về “dân tộc Trung Hoa” trước các quy định của UNCLOS; đưa vấn đề ‘chủ quyền” ở Biển Đông vào sách giáo khoa nhằm đẩy mạnh tuyên truyền về “đường chín khúc”; ngày 21/6/2012, công bố thành lập cái gọi là “Thành phố Tam Sa” trên đảo Phú Lâm, có quyền hạn “quản lý” đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tiếp đó, Bắc Kinh đưa “đường chín khúc” vào mẫu hộ chiếu điện tử phổ thông hòng “luật hóa” chủ quyền ở Biển Đông (tháng 12/2012)…2/ Xâm lấn chủ quyền bằng hoạt động kinh tế biển. Dựa trên luận điểm “hoạt động kinh tế biển đến đâu thì chủ quyền xác lập đến đó” nhằm “làm chủ từng bước” trên thực tế, Trung Quốc chú trọng “đẩy” các tập đoàn dầu khí quốc gia “vươn vòi” ra Biển Đông. Điển hình: Ngày 23/6/2012, Tập đoàn dầu khí Hải Dương Trung Quốc (CNOOC) cho mời thầu quốc tế 9 lô dầu khí có tổng diện tích lên đến 160.129 km2 nằm sâu trong thềm lục địa của Việt Nam; ngày 01/5/2014, CNOOC đã hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gây ra sự phản ứng quyết liệt của Việt Nam, sự phản đối mạnh mẽ của dư luận khu vực và quốc tế; ngày 08/5/2023, đưa tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 (XYH-10) xâm phạm nghiêm trọng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam… 3/ Phá vỡ nguyên trạng bằng hành động vũ lực nhằm “thu hồi chủ quyền” theo phương thức “tằm ăn dâu”. Năm 1956, Trung Quốc đánh chiếm một phần và đến năm 1974, chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1988, họ lại đưa quân đánh chiếm đảo Gạc Ma trên quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam và đến tháng 02/1995, chiếm đóng đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa rồi duy trì hiện diện từ đó đến nay. Đầu năm 2013, Bắc Kinh một lần nữa “gây rối” ở Trường Sa với các hành động “chiếm đóng thực tế” trái phép bãi cạn Scarborough mà Philippines tuyên bố chủ quyền và làm thay đổi hiện trạng tranh chấp. 4/ Tăng cường sức mạnh hải quân để “răn đe quân sự”, tạo sức ép cho các yêu sách chủ quyền theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trên cơ sở tiềm lực kinh tế tăng nhanh liên tục, Bắc Kinh đã tập trung đầu tư xây dựng Hạm đội Nam Hải từ vị trí yếu nhất trở thành mạnh nhất trong số hạm đội của Hải quân Trung Quốc, được trang bị các tàu chiến lớn nhất, hiện đại nhất, trong đó bao gồm nhiều tàu ngầm hạt nhân, tàu khu trục. Cùng với đó là liên tục mở rộng, nâng cấp căn cứ hải quân Tam Á trên đảo Hải Nam đủ sức tiếp nhận nhiều tàu ngầm hạt nhân, kể cả tàu sân bay. Tất cả đều nhằm hướng tới mục tiêu kiểm soát hoàn toàn Biển Đông bằng sức mạnh vũ trang.
Như vậy, dựa vào lợi thế về địa lý tự nhiên và sự “ủ mưu” về tham vọng lãnh thổ rồi hành động từ rất sớm mà đến nay, có thể nói Bắc Kinh đã đạt được một số thành quả địa kinh tế đối với Biển Đông. Bao gồm: 1/ Tạo ra một vùng biển tranh chấp rộng lớn, gây khó khăn cho các quốc gia khác tại khu vực trong việc thăm dò, khai thác tài nguyên năng lượng ngay chính trên vùng biển của mình xét theo luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982; 2/ Tạo ra một môi trường răn đe đối với xung quanh, khiến các nước có tuyên bố chủ quyền khác ngần ngại trong việc triển khai các hoạt động năng lượng trong vùng biển của mình, nhưng Bắc Kinh lại tuyên bố là “chủ quyền” của họ; 3/ Dựa trên tuyên bố “chủ quyền” của mình, Trung Quốc ngang nhiên tiến hành các hoạt động thăm dò và khai thác năng lượng đơn phương trong các khu vực mà các quốc gia khác cũng tuyên bố chủ quyền, từ đó tiếp cận các nguồn tài nguyên. 4/ Gây khó khăn cho việc thiết lập các cơ chế hợp tác đa phương trong khu vực về khai thác tài nguyên năng lượng. Các nước trong và ngoài khu vực nếu tham gia vào các thỏa thuận năng lượng với Trung Quốc trong vùng biển có tranh chấp với nước khác thì “mắc mưu” thừa nhận chủ quyền theo “đường chín khúc” của Trung Quốc. Còn tham gia thỏa thuận năng lượng với nước khác không có Trung Quốc lại phải chịu sức ép từ Bắc Kinh, thậm chí phải rời đi như Mỹ, Tây Ban Nha…đã từng phải rút các dự án hàng tỷ USD ra khỏi Việt Nam, Philippines…; 5/ Chủ động và tăng cường tiến hành các hoạt động nghiên cứu, thăm dò các nguồn năng lượng mới như băng cháy, đất hiếm trong các khu vực mà họ kiểm soát hoặc tuyên bố “chủ quyền”, tạo ra tiềm năng và lợi thế lâu dài.
Không phải ngẫu nhiên, ông Bill Hayton – chuyên gia Viện nghiên cứu quốc tế Hoàng gia Anh, tác giả cuốn sách “Biển Đông: Cuộc đấu giành quyền lực ở châu Á” đã nhận xét: “Trung Quốc đã thiết lập quyền phủ quyết trên thực tế đối với các hoạt động mới nhằm khai thác dầu mỏ trong đường chín khúc”.
Thứ hai, lợi thế về sức mạnh quân sự
Hiện nay, cùng với các căn cứ quân sự hiện đại trên đất liền hướng ra Biển Đông, nhất là các căn cứ ở đảo Hải Nam, Trung Quốc còn đang kiểm soát một số lượng lớn các đảo, đá ở Biển Đông, bao gồm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Theo đó, ngoài các căn cứ quân sự trên quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã xây dựng, nhất là tại các đảo Quang Hòa, Phú Lâm, thì trên quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đã cải tạo, biến 7 bãi cạn nửa chìm nửa nổi mà họ xâm chiếm trái phép của Việt Nam thành các căn cứ quân sự quan trọng, đưa các loại vũ khí, khí tài và các phương tiện quân sự hiện đại bố trí trên đó. Đặc biệt, không chỉ duy trì sức mạnh quân sự trên mặt nước hơn hẳn các nước trong khu vực, Trung Quốc còn chiếm thế “thượng phong” về năng lực kiểm soát dưới mặt nước ở Biển Đông. Điều này không chỉ có ý nghĩa chiến lược về quốc phòng – an ninh, mà còn tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho Bắc Kinh giành quyền kiểm soát các nguồn năng lượng dưới đáy Biển Đông.
Đối với các bãi cạn nửa nổi nửa chìm đang có xu thế nổi, như An Nhơn, Đá Ba Đầu, Én Đất và Tri Lễ còn chưa chiếm được, Trung Quốc đã sử dụng lực lượng dân quân biển để “kiểm soát” trên thực tế, gây sức ép với Philippines và Việt Nam. Trong tương lai, Bắc Kinh rất có thể sẽ “chiếm” nốt những thực thể này, tạo thành các điểm đóng quân mới nhằm mở rộng việc kiểm soát, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên trái phép dưới đáy Biển Đông.
Thứ ba, lợi thế về tiềm lực kinh tế và khoa học công nghệ
Tuy chưa bằng Mỹ, nhưng có thể nói Trung Quốc là nước sở hữu nhiều lợi thế kinh tế và công nghệ trong việc khai thác các nguồn năng lượng dưới đáy biển nói chung, ở Biển Đông nói riêng, đặc biệt là dầu khí, băng cháy, gần đây là uranium từ nước biển, tương lai là đất hiếm.
Về kinh tế, có thể kể đến mấy lợi thế sau: 1/ Trung Quốc có nhu cầu năng lượng rất khổng lồ, đặc biệt là trong bối cảnh mở rộng hạ tầng năng lượng hạt nhân và công nghiệp sản xuất. Ví dụ, năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu khoảng 13.000 tấn uranium tự nhiên, trong khi sản lượng nội địa chỉ đạt 1.700 tấn. Nhu cầu uranium dự kiến vượt 40.000 tấn vào năm 2040. Nhu cầu khổng lồ trên tuy chỉ là yếu tố gián tiếp, nhưng chính đây lại là động lực trực tiếp mạnh mẽ để Trung Quốc mở rộng khai thác các nguồn năng lượng mới như băng cháy, uranium từ nước biển. 2/ Nguồn lực tài chính dồi dào và khả năng đầu tư lớn vào các dự án thăm dò, khai thác năng lượng ở Biển Đông. Các tập đoàn nhà nước, như Tập đoàn Hạt nhân quốc gia Trung Quốc (CNNC), CNOOC và các liên minh nghiên cứu, như Liên minh Đổi mới công nghệ khai thác uranium từ nước biển chẳng hạn, là những đơn vị nhận được sự hỗ trợ rất mạnh mẽ cả về nguồn vốn và chính sách từ chính phủ. Năm 2019, Trung Quốc có kế hoạch xây dựng 20 trạm hạt nhân nổi có thể di chuyển trên Biển Đông để cung cấp năng lượng cho các giàn khoan đẩy nhanh việc khai thác dầu, khí đốt tự nhiên cũng như băng cháy dưới đáy biển. Do có nguồn lực kinh tế dồi dào nên hiện nay, Trung Quốc là nước có nhiều phương tiện, giàn khoan đang hoạt động hoặc đang được sản xuất nhằm phục vụ cho mục đích thăm dò và khai thác năng lượng ở Biển Đông, như giàn khoan Hải Dương 981, tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8, tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10…
Về công nghệ, Trung Quốc có mấy lợi thế sau: 1/ Đã đạt những thành tựu đáng kể trong khai thác băng cháy. Năm 2017, Trung Quốc lập kỷ lục thế giới khi khai thác hơn 300.000m³ băng cháy trong 60 ngày tại khu vực gần Hong Kong, ở độ sâu 1.266m. Công nghệ mới giúp ngăn cát xâm nhập dây chuyền sản xuất, khắc phục vấn đề mà các quốc gia như Nhật Bản gặp phải. 2/ Đạt đột phá trong khai thác uranium từ đại dương với hiệu suất gấp 40 lần so với phương pháp truyền thống. Công nghệ này tận dụng trữ lượng uranium khổng lồ trong nước biển (khoảng 4,5 tỷ tấn, gấp 1.000 lần trên đất liền), hỗ trợ phát triển điện hạt nhân với chi phí thấp và ít phát thải khí CO₂. 3/ Công nghệ 5G đã được áp dụng tại gần 2.000 nhà máy ở Trung Quốc, hỗ trợ quản lý và tối ưu hóa các hoạt động khai thác năng lượng, từ dầu khí đến năng lượng tái tạo. Điều này giúp tăng hiệu quả và giảm chi phí vận hành. 4/ Đã thành lập các liên minh nghiên cứu với sự tham gia của nhiều viện nghiên cứu hàng đầu như Liên minh Đổi mới công nghệ khai thác uranium từ nước biển (thành lập năm 2019) đặt mục tiêu xây dựng nhà máy quy mô lớn vào năm 2035 và sản xuất công nghiệp vào năm 2050. 5/ Dựa vào kinh nghiệm lâu năm trong thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông, kết hợp với các dự án hợp tác quốc tế, giúp Trung Quốc tích lũy nhiều công nghệ và kỹ năng cần thiết để khai thác ở vùng biển sâu. Ngày 17/11/2024, Trung Quốc chính thức đưa tàu khoan biển sâu đầu tiên mang tênMeng Xiang vào hoạt động. Đây là tàu khoan biển duy nhất trên thế giới có khả năng khoan ở độ sâu 11.000m, được thiết kế đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn trước siêu bão cấp 16 và hoạt động bình thường trong điều kiện biển động, có khả năng thực hiện các sứ mệnh toàn cầu ở mọi vùng biển.
Như vậy, so với các nước trong khu vực, Trung Quốc là quốc gia đang có lợi thế hơn cả trong “cuộc chiến” giành quyền kiểm soát nguồn năng lượng ở Biển Đông. Lợi thế này chắc chắn sẽ được Trung Quốc củng cố và phát triển hơn trong tương lai. Sự kết hợp giữa vị trí địa lý chiến lược, tham vọng chủ quyền, sức mạnh kinh tế và quân sự ngày càng tăng, sẽ đưaTrung Quốc tiến gần hơn đến mục tiêu kiểm soát hiệu quả khu vực này và các nguồn tài nguyên quý giá của nó. Tuy nhiên, bên cạnh lợi thế, nước này cũng gặp phải không ít khó khăn, như bối cảnh địa chính trị toàn cầu chi phối; sự phản đối từ các nước khác có chủ quyền, lợi ích bị xâm phạm, chèn ép; sự can dự, cản trở, gây sức ép của các đối thủ cạnh tranh; các yếu tố bất ổn tiềm ẩn trong quá trình khai thác, nhất là đối với nguồn tài nguyên băng cháy, uranium từ nước biển, đất hiếm… sẽ tạo ra những thách thức đáng kể cho tham vọng của Trung Quốc. Và trên tất cả, những gì không phải của mình mà cứ cố tình chiếm lấy, thì rồi cũng “xôi hỏng bỏng không” mà thôi.