30 năm trước Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ngày 28/7/1995. Trải qua ba thập niên, Việt Nam không chỉ là một thành viên tích cực mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc định hình hướng đi của ASEAN trong nhiều vấn đề then chốt.

Mèo không tự khen mèo
Đường dài mới biết ngựa hay. Không phải là “mèo khen mèo dài đuôi” mà là tiếng nói từ chính các thành viên trong khối, như Thái Lan, Singapore, Lào, Campuchia… Đóng góp xuất sắc nhất của Việt Nam là, góp phần quan trọng thúc đẩy đoàn kết nội khối và vai trò trung tâm của ASEAN. Đây chính là điều kiện tiên quyết để ASEAN có tiếng nói chung trước các thách thức khu vực và toàn cầu. Đặc biệt, trong năm Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch ASEAN, năm 2020, giữa cơn cuồng phong Covid-19, Hà Nội đã dẫn dắt ASEAN ứng phó hiệu quả, tổ chức thành công nhiều hội nghị trực tuyến cấp cao, duy trì đà hợp tác.
Một điểm nóng trong các tranh luận không ngớt là lập trường nguyên tắc về Biển Đông. Có những khi tình hình thực địa hết sức phức tạp, thậm chí nguy cơ xảy ra chiến tranh nóng, Việt Nam kiên định trong việc bảo vệ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982), đồng thời thúc đẩy việc sớm hoàn tất Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC).
Với chính sách “ngoại giao cây tre” Việt Nam trở thành cây cầu hữu nghị giữa ASEAN và các đối tác lớn. Đến nay, danh sách đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam với các nước ngày càng dài hơn. Trong đó, có quan hệ ngoại giao tích cực với hầu hết các cường quốc như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ và Liên minh châu Âu.
Nhờ giữ vị trí trung lập, khôn khéo và có uy tín, Việt Nam góp phần giữ thế “cân bằng chiến lược”, không để ASEAN bị nghiêng về bên nào trong cạnh tranh giữa các nước lớn.
Không chỉ lo giữ cân bằng, đất nước 100 triệu dân này còn là nơi phát minh nhiều sáng kiến quan trọng trong các lĩnh vực an ninh, kinh tế, văn hóa, y tế và môi trường; tích cực thúc đẩy Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), góp phần tăng cường vai trò kinh tế của ASEAN.
Có nhà ngoại giao sừng sỏ Thái Lan nhận xét rằng: Năng lực địa kinh tế và ngoại giao kinh tế của Việt Nam hiện nay đã cách xa một trời một vực so với những năm trước. Điều này có sự đóng góp không nhỏ của ASEAN.
Đúng là như vậy. So với cách đây vài thập kỷ, năng lực địa kinh tế và ngoại giao kinh tế của Việt Nam đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, đến mức có thể nói là “một trời một vực”. Sự phát triển này không thể tách rời khỏi vai trò của ASEAN, cả về phương diện nền tảng, cơ hội lẫn bệ phóng chiến lược.
Từ một nền kinh tế tực cấp tự túc, đóng kín, Việt Nam chuyển sang hội nhập sâu rộng. Những năm 1990, mới chỉ bắt đầu chuyển đổi kinh tế, mở cửa ra thế giới. Quy mô kinh tế nhỏ, năng lực sản xuất thấp, chủ yếu phụ thuộc vào viện trợ và xuất khẩu thô. Thế nhưng nay trở thành một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới (kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2024 đạt hơn 786 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm trước; tham gia hàng chục FTA, trong đó có các hiệp định thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP.
Ngoại giao kinh tế trở thành trụ cột chiến lược của Việt Nam (cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa). Cụ thể là tăng cường thu hút đầu tư chất lượng cao, chuyển giao công nghệ, đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng, gắn với bảo vệ lợi ích quốc gia trong thương mại và kinh tế số.
“Chúng tôi không quên công lao của bạn bè quốc tế, nhất là những người bạn láng giềng trong khối ASEAN”, các nhà lãnh đạo Hà Nội thường nói câu này trong các diễn đàn lớn. Đây khôngphair câu nói “đãi bôi” mà thực chất là như thế. ASEAN chính là bệ đỡ đầu tiên và quan trọng nhất cho Việt Nam hội nhập. Còn nhớ, sau khi gia nhập ASEAN năm 1995, Việt Nam lần đầu tiên được tiếp cận một khung hợp tác kinh tế đa phương bài bản. Tham gia vào Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA), sau đó là các FTA giữa ASEAN với các đối tác lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, EU…
ASEAN đã giúp Việt Nam “tập dượt” năng lực đàm phán đa phương, từng bước nâng cao năng lực xây dựng chính sách, đàm phán và vận hành các cam kết quốc tế. Việt Nam dần chuyển từ “người học việc” thành “người kiến tạo” trong các tiến trình kinh tế khu vực.
Đa tầng-đa phương-đa chiều
Dù đạt nhiều thành tựu to lớn nhưng cái vướng nhất trong Khối ASEAN vẫn là vấn đề mất ổn định trên Biển Đông. Việt Nam luôn trăn trở, làm thế nào để kiềm chế tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc và tranh thủ sự ủng hộ của các nước trong khu vực?
Có thể nói là một trong những điểm nghẽn lớn nhất và nhạy cảm nhất trong hợp tác ASEAN hiện nay. Biển Đông vừa là không gian sinh tồn chiến lược của Việt Nam, vừa là tâm điểm cạnh tranh địa chính trị giữa Trung Quốc và nhiều nước khác.
Trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng các hành động nhằm hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” phi pháp, Việt Nam đã và đang sử dụng một chiến lược tổng thể, mềm dẻo nhưng kiên định để vừa kiềm chế tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, vừa tranh thủ được sự ủng hộ của ASEAN và các đối tác quốc tế.
Vậy Việt Nam đã làm gì để kiềm chế tham vọng của ông bạn láng giềng? Vẫn phải nhắc lại một điều cốt tử: Kiên định lập trường dựa trên luật pháp quốc tế, kiên quyết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình ở Biển Đông, dựa trên UNCLOS 1982.
Chủ động sử dụng các kênh ngoại giao đa phương và song phương, Hà Nội đã tranh thủ các diễn đàn như Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN, Diễn đàn khu vực ARF, EAS để nêu rõ quan điểm và thúc đẩy đối thoại. Tại Liên hợp quốc và các diễn đàn luật biển, Việt Nam cũng thường xuyên có các tuyên bố chính thức phản đối hành động sai trái của Trung Quốc. Bên cạnh đó, khéo léo giữ kênh đối thoại trực tiếp với Trung Quốc luôn nồng ấm, để kiểm soát căng thẳng và xử lý tình huống.
Nhằm tăng cường hợp tác quốc phòng – an ninh với các nước khác, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc phòng – an ninh với các nước như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, Hàn Quốc, và EU. Đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc: tự do hàng hải, hàng không, không quân sự hóa, giải quyết hòa bình tranh chấp.
Để tranh thủ sự ủng hộ của ASEAN và khu vực, Hà Nội đã giữ vững thăng bằng bằng cách không để các bện mâu thuẫn, chia rẽ vì vấn đề Biển Đông, bởi một trong những khó khăn lớn là trong ASEAN có sự khác biệt về lợi ích (ví dụ: Campuchia và Lào thường né tránh chỉ trích Trung Quốc). Vì vậy các bên kiên trì thúc đẩy một lập trường thống nhất tối thiểu, không để ASEAN rơi vào tình trạng “chia rẽ chiến lược”. Năm 2020, dưới vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã đưa ra Tuyên bố chung mạnh mẽ về Biển Đông, khẳng định vai trò của UNCLOS 1982.
Công việc sắp tới của Hà Nội và các thành viên trong khối là thúc đẩy mạnh mẽ việc hoàn tất Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) để có tính ràng buộc pháp lý. Việc đàm phán COC giữa ASEAN và Trung Quốc hướng tới mục tiêu: Đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các nước ven biển; phù hợp với luật pháp quốc tế, không chấp nhận văn bản mơ hồ, tạo điều kiện cho Trung Quốc thao túng.
Dù tiến trình này khó khăn và bị Trung Quốc trì hoãn, Việt Nam vẫn kiên định đòi hỏi tính minh bạch và ràng buộc pháp lý.
Trước tham vọng biến Biển Đông thành ao nhà của chính quyền Bắc Kinh, Việt Nam không chọn đối đầu trực diện bằng vũ lực, mà kiên trì theo đuổi một chiến lược “đa tầng-đa phương-đa chiều”. Kiên định nguyên tắc – Khôn khéo ngoại giao – Linh hoạt phối hợp – Chủ động tranh thủ bạn bè quốc tế.
Ở dấu mốc lịch sử 30 năm, Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có lập trường rõ ràng và mạch lạc nhất về Biển Đông. Và chính điều đó đang giúp gìn giữ vai trò trung tâm của ASEAN, đồng thời nâng cao vị thế chiến lược của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
H.Đ