Friday, December 5, 2025
Trang chủBiển ĐôngNâng cao hơn nữa hoạt động đấu tranh, bảo vệ chủ quyền...

Nâng cao hơn nữa hoạt động đấu tranh, bảo vệ chủ quyền của đất nước ở Biển Đông

Trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của đất nước ta trên Biển Đông, ngoài những lực lượng đấu tranh trên thực địa, đấu tranh trên trường quốc tế và mặt trận pháp lý, trên lĩnh vực tâm lý ra, còn một lực lượng quan trọng không thể thiếu vắng và hết sức hiệu quả trong bảo vệ chủ quyền biển đảo của tổ quốc, đó là báo chí Việt Nam.

Còn nhớ từ năm 2003, chính quyền Trung Quốc đã đề ra thuyết “Tam chủng chiến pháp”, bao gồm chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông và chiến tranh pháp lý, hợp thành một “bộ ba” đối sách để nước này thực thi trong tuyên truyền đấu tranh giành và giữ chủ quyền mà Bắc Kinh tuyên bố “thuộc về họ”. Mục tiêu ban đầu của học thuyết này là nhằm vào Đài Loan, nhưng sau này được mở rộng ra các khu vực và các lĩnh vực khác, đặc biệt là trong các hoạt động tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với các nước khác ở Biển Đông.

Trong đó, chiến tranh truyền thông, báo chí, bao gồm báo in, báo điện tử, phát thanh, truyền hình và các nền tảng truyền thông mới, kết hợp với nhau, được xem là một công cụ sắc bén, góp phần định hình nhận thức, gây ảnh hưởng và kết hợp với các hoạt động khác nhằm phục vụ cho ý đồ “độc chiếm Biển Đông” của Trung Quốc.

Nhìn lại hoạt động sử dụng truyền thông, báo chí để tuyên truyền về chủ quyền phi pháp ở Biển Đông của Trung Quốc thời gian gần đây

Năm 2009, Trung Quốc trưng tấm bản đồ “đường đứt đoạn” ra trước cộng đồng quốc tế để khẳng định chủ quyền ở Biển Đông, nhưng tấm bản đồ đó lại không dựa trên một quy chuẩn quốc tế nào cả và chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của nhiều quốc gia trong khu vực. Hành động này là sai trái nên bị các nước phản đối. Năm 2016, Tòa Trọng tài về Biển Đông được thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS đã ra Phán quyết, bác bỏ yêu sách phi lý này của Trung Quốc. Thế nhưng, Bắc Kinh ngoan cố không chịu thừa nhận phán quyết đó, tiếp tục dùng mọi biện pháp, mánh khóe, thủ đoạn khác nhau, trong đó có truyền thông, báo chí để tuyên truyền yêu sách và chủ quyền phi lý của họ trên Biển Đông. Nội dung và cách thức mà truyền thông, báo chí Trung Quốc tiến hành bao gồm các vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, họ sử dụng các ấn phẩm chính thống như báo chí và truyền hình nhà nước để tuyên truyền nhằm gia tăng độ tin cậy và tính chính xác. Nhiều tờ báo lớn, hãng thông tấn, đài truyền hình quốc gia của Trung Quốc như Tân hoa xã, Nhân Dân nhật báo, Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), China Daily, Global Times, thường xuyên được huy động để đăng tải, truyền bá các bài viết, phóng sự, bình luận khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi” của Trung Quốc đối với Biển Đông, kèm theo bản đồ “đường đứt đoạn”. Nội dung của các bài viết, phóng sự này thường nhấn mạnh vào giá trị “quyền lịch sử” về chủ quyền, quá trình “khai thác lâu đời” đối với các vùng biển, đảo của Trung Quốc, đồng thời trắng trợn bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của các quốc gia khác. Hay như trong các tạp chí học thuật và chuyên san, các bài nghiên cứu, phân tích, đánh giá, bình luận do các học giả Trung Quốc công bố cũng được lồng ghép những quan điểm ủng hộ “đường đứt đoạn” như là sản phẩm lâu đời, từng mặc nhiên được công nhận; cố gắng tạo ra những “cơ sở khoa học” cho yêu sách phi pháp để tuyên truyền trong nước và ra thế giới. Năm 2020, một bài viết trên trang Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) 2020 cho biết, có đến trên 20 tạp chí khoa học nổi tiếng của nhiều nhà xuất bản khác nhau trên thế giới, như Springer’s Nature, Science, Elsevier… đã phản ánh nhiều nội dung khác nhau liên quan đến vấn đề Biển Đông, nhưng trong đó có khoảng 260 bài báo đã sử dụng bản đồ “đường đứt đoạn” theo giọng điệu của Trung Quốc. Điều đó cho thấy một phần nào đó, truyền thông, báo chí quốc tế cũng bị truyền thông, báo chí Trung Quốc “lũng đoạn” và lôi kéo. Nhưng trên thực tế, số bài báo khoa học được phía Trung Quốc cài cắm “đường đứt đoạn” còn nhiều hơn thế. Không ít các công ty nước ngoài đang làm ăn ở Trung Quốc cho biết, muốn “bám trụ” và làm ăn lâu dài ở đây thì họ bị chính quyền nước này ép phải có website thể hiện “đường đứt đoạn”. Nhiều bài báo khoa học của một số nhà nghiên cứu muốn đăng tải trên các tạp chí quốc tế mà Trung Quốc có ảnh hưởng cũng chịu cảnh tương tự, nghĩa là phải có đăng tải “đường đứt đoạn” thì mới được “lên makets”, còn không thì chịu cảnh “om dưa”. Còn với báo chí trong nước của họ thì đương nhiên “bảo sao phải nghe vậy”.

Một số sách báo, nhất là báo in và báo điện tử, hay sách giáo khoa, truyện tranh, được tận dụng tối đa để đưa hình ảnh “đường đứt đoạn” lên đó nhằm “thẩm thấu dần” vào nhận thức về “chủ quyền” của Trung Quốc ở Biển Đông. Đây là kênh tuyên truyền được Trung Quốc rất coi trọng vì nó phục vụ cho chiến lược tuyên truyền lâu dài bởi đối tượng của kênh này là giới trẻ.

Thứ hai, cắt gọt một cách tinh vi “đường đứt đoạn” rồi lồng ghép vào các sản phẩm văn hóa, giải trí. Mặc dù không phải là “báo chí” theo nghĩa đen, nhưng các sản phẩm văn hóa, giải trí được lan truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đóng vai trò như một kênh tuyên truyền mạnh mẽ về yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc ở Biển Đông. Phim ảnh và chương trình truyền hình là một trong những hình thức phổ biến nhất của hoạt động này. Do đó, “đường đứt đoạn” đã được lồng ghép vào phim hoạt hình, phim điện ảnh, phim truyền hình, chương trình giải trí một cách rất khéo léo, đôi khi chúng chỉ xuất hiện vài giây nhưng cũng đủ để gây “ấn tượng mạnh” trong tiềm thức của người xem. Nhiều bộ phim hoạt hình như “Everest: Người Tuyết bé nhỏ”, “Điệp vụ Biển Đỏ”, hay như phim truyền hình “Flight to you” (Hướng gió mà đi), ra mắt cuối năm 2022, phát trên nền tảng Netflix, ngoài việc đưa hình ảnh “đường đứt đoạn” xuất hiện trong nhiều tập, còn kèm theo những lời thoại rất ngang ngược như: “Rồi sẽ có ngày, tấm bản đồ này đi đến rất nhiều nơi trên thế giới”… Ai cũng biết, không gian trên mạng là không gian không biên giới, Trung Quốc đã và đang lợi dụng yếu tố “không biên giới” này để tuyên truyền về “đường đứt đoạn” phi pháp của họ bằng các loại hình của báo chí nhằm thay đổi nhận thức của công chúng về Biển Đông theo ý đồ của họ.

Thứ ba, thông qua các kênh truyền thông xã hội và kỹ thuật số để tuyên truyền yêu sách phi lý ở Biển Đông. Các Đại sứ quán, lãnh sự quán và các cơ quan ngoại giao của Trung Quốc thường xuyên sử dụng các tài khoản chính thức trên các nền tảng mạng xã hội, như Facebook, X – trước đây là Twitter, Weibo… để đăng tải các thông tin, hình ảnh, bài viết ủng hộ yêu sách “đường đứt đoạn”, đồng thời phản bác lại các quan điểm đối lập. Trên một số ứng dụng, phần mềm của Trung Quốc, ví dụ như ứng dụng dự báo thời tiết, bản đồ định vị… cũng hiển thị “đường đứt đoạn” phi pháp. Hay như các dịch vụ bản đồ trực tuyến của Trung Quốc như Baidu Maps chẳng hạn, luôn hiển thị “đường đứt đoạn”. Do thị trường Trung Quốc quá rộng lớn, nên nhiều tập đoàn kinh tế quốc tế khi xâm nhập thị trường này buộc phải sử dụng bản đồ Baidu, vô tình buộc phải thừa nhận và cũng trở thành luôn “công cụ” tuyên truyền cho yêu sách của Trung Quốc.

Thứ tư, Trung Quốc sử dụng các loại hình báo chí tuyên truyền về các hoạt động phi pháp của mình, nhưng lại vu cáo, bóp méo sự thật về các hoạt động bảo vệ chủ quyền hợp pháp của các nước khác ở Biển Đông. Báo chí là một trong những kênh được Trung Quốc sử dụng nhiều nhất để biện minh cho các hành động xâm phạm chủ quyền của các nước khác, như xây dựng đảo nhân tạo, quân sự hóa các thực thể trên biển, triển khai dân quân biển và tàu hải cảnh. Họ thường miêu tả các hoạt động này là “bảo vệ chủ quyền”, “duy trì hòa bình và ổn định”, hoặc “thực thi pháp luật”. Khi yêu sách “đường đứt đoạn” bị quốc tế phản đối mạnh, thậm chí trở thành “cuộc chiến pháp lý” với Trung Quốc, thì Bắc Kinh lại giở chiêu trò, mánh khóe khác, như ban hành và công bố rộng rãi các quy định nội địa liên quan đến Biển Đông, chẳng hạn như Luật Hải cảnh hay các quy định về việc bắt giữ ngư dân nước ngoài, nhằm củng cố yêu sách phi pháp của mình. Báo chí Trung Quốc thường theo đó nhanh chóng vào cuộc và đóng vai trò tiên phong trong việc thông tin rộng rãi về các quy định này để khẳng định “quyền tài phán” của họ.

Cùng với việc ra sức biện bạch cho các hoạt động phi pháp của mình, thì ở chiều ngược lại, báo chí Trung Quốc lại thường xuyên đưa tin sai lệch, bóp méo sự thật về các hoạt động hợp pháp của các quốc gia khác ở Biển Đông, đặc biệt là về các hoạt động của Việt Nam và Philippines. Dư luận gọi đây là hành động “vừa ăn cướp, vừa la làng” của Bắc Kinh. Ví dụ: Đảo Phan Vinh là của Việt Nam, mọi hoạt động của Việt Nam ở đây chỉ là để phòng thủ, bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình theo đúng quy định của luật pháp quốc tế, không có ý đồ tấn công hay đe dọa bất cứ nước nào ở Biển Đông. Ấy vậy mà, ngày 26/10/2021, nhiều tờ báo của Trung Quốc, trong đó có tờ Sina đã bóp méo sự thật, cho rằng, “Việt Nam đang cải tạo, mở rộng đá ngầm trái phép để cưỡng bức Trung Quốc bằng những việc đã rồi”. Nực cười hơn, báo này còn đánh đồng hoạt động xây dựng thế phòng thủ hợp pháp của Việt Nam trên lãnh thổ của mình với hoạt động lấp biển, tạo đảo nhân tạo trái phép và biến nó thành các căn cứ quân sự trên Biển Đông của Trung Quốc. Báo này còn kêu gọi Trung Quốc “cảnh giác” trước những hành động của Việt Nam vì “Việt Nam là kẻ chiến thắng lớn nhất trong cuộc chiến tranh giành các đảo ở Biển Đông với số đảo và bãi đá ngầm bị họ chiếm giữ lên tới 29 cái, trong khi Trung Quốc chỉ kiểm soát 9 đảo, bãi đá ở Nam Sa, bao gồm cả đảo Ba Bình do chính quyền Đài Loan kiểm soát…”; hơn nữa “hành vi xây đảo của Việt Nam ở Trường Sa có khả năng bị phương Tây lợi dụng và xúi giục nhằm bao vây Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông”. So sánh luận điệu này với các hành động phi pháp mà Trung Quốc đã làm ở Biển Đông trong những năm qua cho thấy, báo chí Trung Quốc thực ra ngoài việc bẻ cong sự thật về hành động chiếm đóng ngang ngược, trái phép chủ quyền của các nước nhỏ khác ở Biển Đông, nhưng cũng có phần “cay đắng” mà ngầm nhìn nhận “nước to như thế mà chỉ chiếm có mấy hòn đảo”, nên phải trâng tráo, to mồm rằng, “đường đứt đoạn” là “chủ quyền lịch sử không thể tranh cãi”, mặc dù yêu sách này hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và đã bị Phán quyết thẳng thừng bác bỏ vào năm 2016.

Chưa hết, Trung Quốc còn bỏ tiền ra “thuê” học giả người nước ngoài viết bài tuyên truyền về chủ quyền và hoạt động phi pháp của họ ở Biển Đông. Điển hình nhất là trường hợp của giáo sư người Mỹ Mark J.Valencia. Ông này đã có nhiều bài viết, trong đó đáng chú ý là giữa lúc cả giới đang tập trung chống đại dịch Covid-19 và lên án các hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông vào những tháng đầu năm 2020, thì vị học giả này lại có bài viết bênh vực Trung Quốc về Biển Đông bằng những ngôn từ phiến diện và vô căn cứ. Rút cục là “vì tiền” nên ông Mark J.Valencia đã “bẻ cong” sự thật và pháp luật, đánh mất nhân phẩm của nhà khoa học chân chính, “bán mình” cho Trung Quốc. 

Những cách làm trên đây cho thấy, truyền thông, báo chí Trung Quốc không chỉ là công cụ truyền tải thông tin, mà còn là một phần không thể thiếu và được Trung Quốc rất quan tâm, chú trọng trong chiến lược tổng thể nhằm hiện thực hóa tham vọng “độc chiếm Biển Đông”.

Trước thực trạng trên, báo chí Việt Nam cần nâng cao hơn nữa vai trò trong đấu tranh với các luận điệu sai trái của Trung Quốc ở Biển Đông, bảo vệ chủ quyền chính đáng của quốc gia

Trong những năm qua, các loại hình truyền thông, báo chí Việt Nam đã có đóng góp rất lớn vào công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước, nhất là tạo sự đồng thuận trong xã hội theo đúng các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước. Đó là những lúc dư luận trong, ngoài nước sục sôi vì hành động Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (2014), hay những hành động Bắc Kinh đưa tàu cảnh sát biển vào cắt cáp thăm dò của tàu dầu khí Việt Nam đã được báo chí thông tin kịp thời, phản ánh chính xác, động viên, hướng dẫn quân và dân cả nước đấu tranh kiên quyết, toàn diện và kịp thời với đối phương nhưng vẫn coi trọng và đảm bảo giữ gìn được hòa bình. Đó là những lúc báo chí kịp thời thông tin tình hình trên biển, dư luận quốc tế, cuộc đấu tranh pháp lý khi những căng thẳng đang diễn ra không chỉ với Trung Quốc mà còn cả với Philippines, đồng thời hướng dẫn dư luận trong nước đấu tranh đúng nơi, đúng lúc và hiệu quả. Tất cả những hoạt động đó không những được nhân dân cả nước ghi nhận mà còn được cộng đồng quốc tế hoan nghênh và đánh giá cao.

Phát huy những kết quả trên, thời gian tới, để công cuộc đấu tranh với các thủ đoạn, biện pháp và luận điệu tuyên truyền sai trái của Trung Quốc ở Biển Đông có hiệu năng, hiệu quả hơn, báo chí Việt Nam cần có một chiến lược toàn diện, bài bản và linh hoạt hơn, trong đó cần:

Một là, không chỉ phản bác các luận điệu sai trái từ phía đối phương đưa ra, mà còn phải chủ động đưa tin nhiều chiều về các hoạt động hợp pháp, chính đáng và các bằng chứng lịch sử, pháp lý khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi theo quy định của luật pháp quốc tế của Việt Nam ở Biển Đông. Ngạn ngữ nhiều quốc gia, dân tộc đều dùng câu giống nhau: “mưa dầm thấm lâu”; tục ngữ Việt Nam thì có câu “Nói phải củ cải cũng nghe”. Khi truyền thông, báo chí lập luận có lý lẽ, đúng đắn, chặt chẽ, có sức thuyết phục cao thì không chỉ tập hợp, khơi dậy được tinh thần yêu nước của cả dân tộc, mà còn nhận được sự đồng tình ủng hộ lớn của dư luận thế giới.

Hai là, đa dạng hóa nguồn tin, nghĩa là cung cấp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm từ các cơ quan chức năng, các chuyên gia, nhà nghiên cứu uy tín ở trong và ngoài nước, cũng như từ những ngư dân, thủy thủ, lực lượng chấp pháp biển đang hoạt động trên thực địa… để tăng độ dày và độ tin cậy của thông tin từ báo chí.

Ba là, mặc dù truyền thông, báo chí có vai trò đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, bảo vệ chân lý, bênh vực lẽ phải nhưng việc đưa tin luôn luôn phải nhất quán là dựa trên sự thật, phản ánh đúng sự thật và có bằng chứng rõ ràng, tránh thổi phồng hoặc cường điệu hóa, nhằm đảm bảo duy trì sự tin cậy. Một khi sự thật đã là sự thật rồi thì không cần thiết phải tô vẽ, cường điệu mà cần sự chính xác, đáng tin.

Bốn là, cần có những bài phân tích chuyên sâu, vạch trần bản chất sai trái, phi lý của “đường đứt đoạn” và các yêu sách của Trung Quốc trái với hoặc không thực sự phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982. Đối tượng tuyên truyền của truyền thông, báo chí có nhiều tầng lớp khác nhau, nhận thức, trình độ khác nhau, ở các vùng miền khác nhau nên các vấn đề liên quan đến pháp lý, địa lý, lịch sử phức tạp khi chuyển tải tới họ phải làm sao cho chính xác, dễ hiểu, dễ tiếp cận đối với công chúng cả trong và ngoài nước.

Năm là, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động phối kết hợp với các nước trên thế giới trong lĩnh vực truyền thông, báo chí để tuyên truyền về chủ quyền hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông. Ví dụ như mời gọi chuyên gia quốc tế về luật biển, về lịch sử, về quan hệ quốc tế tham gia viết bài, hội thảo để tăng tính thuyết phục và khách quan cho các bài viết; tăng cường sản xuất và phổ biến các nội dung về Biển Đông bằng nhiều ngôn ngữ trên các nền tảng quốc tế; tham gia vào các diễn đàn quốc tế về Biển Đông để trình bày quan điểm của Việt Nam, phản bác các thông tin sai lệch. Ngoài việc bảo vệ chủ quyền, báo chí cần thể hiện Việt Nam là một quốc gia yêu chuộng hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, là đối tác đáng tin cậy trong khu vực.

Sáu là, tăng cường ứng dụng công nghệ và đa dạng hóa hình thức truyền tải để lan tỏa thông tin, tương tác với công chúng và phản bác nhanh chóng các tin tức giả mạo, sai trái.

Bảy là, nâng cao nhận thức trong nước và huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Tám là, cần thấy thuyết “Tam chủng chiến pháp” của Trung Quốc đưa ra và thực thi chính là một cuộc chiến dài hơi, dai dẳng, mang tính chiến lược nên truyền thông, báo chí Việt Nam cũng cần phải có chiến lược dài hạn, kiên trì theo dõi, phân tích và phản ứng với từng động thái thông tin, tuyên truyền của Trung Quốc. Khi có sự kiện thì phải phản ứng nhanh, nhưng cần thận trọng, không để sai sót, nhầm lẫn thông tin, gây bất lợi. Như vậy, Trung Quốc đã và đang sử dụng báo chí và các kênh truyền thông khác để tuyên truyền về chủ quyền phi pháp của họ ở Biển Đông. Đây là một loại hoạt động nổi bật nhằm thực hiện nhiều mục tiêu khác nhau, như củng cố yêu sách chủ quyền phi pháp; thay đổi nhận thức quốc tế theo hướng ủng hộ các tuyên bố của Trung Quốc, hoặc ít nhất là tạo ra ảo tưởng rằng các yêu sách của họ được chấp nhận rộng rãi; giáo dục lòng yêu nước trong nước; làm suy yếu ý chí phản kháng của các nước đối địch; biện minh cho các hành động gây hấn; định hướng dư luận và xây dựng hình ảnh “trỗi dậy hòa bình” nhằm che đậy những ý đồ bá quyền thực sự. Trước thực trạng này, hơn bao giờ hết, báo chí cách mạng Việt Nam cần làm tốt hơn nữa vai trò của mình như Le Nin đã dạy, đó là “người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể”, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ các vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, tạo môi trường an ninh thuận lợi ở Biển Đông để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển của dân tộc.

RELATED ARTICLES

Tin mới