Mở màn cuộc chiến thương mại vào ngày 6/7/2018, chính quyền Donald Trump (nhiệm kỳ 1.0) chính thức áp thuế lên đến 25% đối với 34 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc, cùng với 25% đối với mặt hàng thép và 10% đối với nhôm nhập khẩu từ các đồng minh như Liên minh châu Âu, Canada và Mexico. Bước đến nhiệm kỳ 2.0, Tổng thống Trump tái xuất với những chính sách được cho là quyết liệt hơn. Viễn cảnh áp thuế 60% lên toàn bộ hàng hóa Trung Quốc không còn là lời đe dọa. Những chính sách được đề xuất thậm chí còn đi xa hơn thế, khi ông chủ Nhà Trắng đã áp thuế phổ quát 10% cho tất cả hàng nhập khẩu, tái lập các hàng rào bảo hộ trên diện rộng, bất chấp nguy cơ lạm phát leo thang và chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy.

Chủ nghĩa bảo hộ quyết liệt nêu trên, cho dù nhằm bảo vệ ngành công nghiệp nội địa và giảm thâm hụt thương mại, nhưng đang đẩy nước này vào vòng xoáy bất ổn. Trong đó, lạm phát tăng, thị trường chứng khoán lao dốc, cũng như phải đối mặt với nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu đang hiện hữu. Theo ước tính của Quỹ Thuế, chính sách thuế quan sẽ khiến nhập khẩu giảm hơn 800 tỷ USD trong năm nay. Vậy liệu tham vọng làm nước Mỹ vĩ đại trở lại của Donald Trump sẽ thật sự thành công hay vô tình tái hiện kịch bản của Liên Xô, khi một siêu cường tự làm suy yếu chính mình bởi những tính toán sai lầm và xung đột kinh tế không khoan nhượng?
Cuộc chiến tranh thương mại do Mỹ khởi xướng dưới thời Tổng thống Donald Trump và được duy trì ở các mức độ khác nhau trong nhiệm kỳ kế tiếp không đơn thuần là một chính sách kinh tế, mà nó là một canh bạc địa chính trị quy mô toàn cầu. Ẩn sau những rào cản thuế, lệnh cấm xuất khẩu công nghệ và khẩu hiệu “Làm nước Mỹ vĩ đại trở lại” là một hệ thống toan tính mang tính định hình trật tự thế giới mới, nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ tự làm suy yếu nền kinh tế nội tại.
Nếu kéo dài và không kiểm soát, chính sách này có thể đẩy nền kinh tế Mỹ vào một vòng xoáy bất ổn nghiêm trọng. Khi đó, chi phí sản xuất tăng vọt, chuỗi cung ứng bị phá vỡ và thị trường toàn cầu phân hóa. Trong khi Trung Quốc, đối thủ chính bị nhắm đến, lại ngày càng thích nghi tốt hơn. Những diễn biến ấy nhắc chúng ta nhớ đến sự sụp đổ của Liên Xô cuối thế kỷ XX, một siêu cường bị cuốn vào cuộc cạnh tranh toàn diện, dốc toàn lực cho đối đầu bên ngoài và dần kiệt quệ từ bên trong.
Trở lại với nhiệm kỳ đầu từ năm 2017 – 2021, Tổng thống Donal Trump đã khởi động một cuộc chiến thương mại chưa từng có kể từ sau Thế chiến thứ hai, với trọng tâm là Trung Quốc, đất nước mà ông cáo buộc ăn cắp việc làm và tài sản trí tuệ của Mỹ. Ngay từ năm 2018, Trump áp thuế 25% lên rất nhiều hàng hóa của xứ tỷ dân, tập trung vào các sản phẩm công nghệ cao thuộc kế hoạch “Sản xuất tại Trung Quốc 2025”. Đến cuối nhiệm kỳ, tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu chịu thuế lên tới 380 tỷ USD, bao gồm thép, nhôm và nhiều sản phẩm tiêu dùng. Không ngồi im, Bắc Kinh đáp trả thuế quan lên 110 tỷ USD hàng hóa của đối thủ, nhắm vào nông sản như đậu nành và thịt lợn, khiến nông dân Mỹ chịu thiệt hại nặng nề.
Thâm hụt thương mại của hai nước vào năm 2017 là 375,6 tỷ USD, nhưng đến năm 2018 con số đã lên đến 419,2 tỷ USD. Trước tình hình ấy, các nhà nhập khẩu hàng hóa từ Mỹ đã chuyển sang lấy nguồn cung từ Mexico và Việt Nam, dẫn đến hiện tượng chuyển hướng thương mại thay vì giảm thâm hụt tổng thể. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Goldman Sachs, thuế quan thời kỳ này làm tăng giá tiêu dùng nội địa khoảng 0,4%. Mặc dù Trump tuyên bố thuế quan bảo vệ ngành công nghiệp trong nước, nhưng thực tế cho thấy chúng làm tăng chi phí sản xuất, giảm sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và đẩy lạm phát lên cao.
Chính sách còn làm lung lay các thể chế thương mại toàn cầu. Việc Washington rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương năm 2017 và làm tê liệt Cơ quan Phúc thẩm của Tổ chức Thương mại Thế giới bằng cách không cho bổ nhiệm thành viên mới đã làm suy yếu các khuôn khổ đa phương. Thay vào đó, ông Trump ưu tiên các thỏa thuận song phương, nhưng hiệu quả kinh tế của chúng không thật sự ấn tượng. Đặc biệt, dù chính vị tổng thống đề xuất ký Hiệp định Mỹ – Mexico – Canada trong nhiệm kỳ đầu tiên, nhưng khi quay trở lại Nhà Trắng, ông Trump lại nói chỉ trích thỏa thuận này, khiến cho hai nước láng giềng không khỏi bất ngờ. Đáng chú ý, thâm hụt thương mại tổng thể của Mỹ tăng từ 505 tỷ USD năm 2016 lên 621 tỷ USD năm 2018, phản ánh thất bại trong việc đạt mục tiêu cốt lõi của Trump.
Thuế quan cũng gây ra biến động thị trường tài chính, với chỉ số S&P 500 nhiều lần lao dốc sau các đợt áp thuế mới. Dù Trung Quốc đạt được thỏa thuận giai đoạn 1 với Mỹ vào năm 2020, khi cam kết sẽ mua 200 tỷ USD hàng hóa của nước này, nhưng họ đã không thực hiện đầy đủ, qua đó cho thấy hạn chế của chiến lược dùng thuế quan để ép buộc nhượng bộ.
Bước sang nhiệm kỳ thứ hai từ tháng 1/2025, được gọi là Trump 2.0, tân tổng thống đã ban hành nhiều chính sách thương mại quyết liệt hơn, với quy mô và tham vọng vượt xa nhiệm kỳ đầu. Gần 4 tháng đầu năm 2025, mức thuế trung bình áp lên hàng nhập khẩu vào Mỹ tăng từ 2% lên 24%, cao nhất trong hơn một thế kỷ. Tổng giá trị hàng hóa chịu thuế dự kiến vượt 1.400 tỷ USD, gấp gần 4 lần con số của nhiệm kỳ trước.
Trump nhắm vào Trung Quốc với mức thuế tổng cộng lên đến 145% sau ngày 9/4, đồng thời áp thuế 25% lên hàng hóa từ Canada và Mexico, dù sau đó miễn trừ một phần cho hàng hóa tuân thủ USMCA. Chính sách thuế đối ứng của ông dựa trên thâm hụt thương mại song phương bị các nhà kinh tế chỉ trích là quá đơn giản và phi logic. Chẳng hạn, Việt Nam phải đối mặt với mức thuế 46% do thặng dư thương mại 120 tỷ USD với Mỹ, đã gây sốc cho các nhà xuất khẩu của Việt Nam. Các đối tác khác cũng không thoát khỏi vòng xoáy thuế quan, như EU với 20% và Brazil là 10%.
Hậu quả của chính sách thời kỳ Trump 2.0 đã nhanh chóng bộc lộ. Phía đại lục trả đũa bằng cách tăng thuế lên hàng hóa của xứ cờ hoa từ 84% lên 125% vào ngày 11/4. Căng thẳng càng được leo thang khi ông chủ Nhà Trắng áp đặt mức thuế 245% vào ngày 16/4. Thương mại Mỹ – Trung, vốn chiếm hơn 15% thương mại toàn cầu, có nguy cơ giảm 80% nếu xung đột không được kiểm soát.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận một số lợi ích ngắn hạn của chính sách Trump. Thuế quan đã thúc đẩy một số ngành công nghiệp nội địa như thép và ô tô, và buộc các công ty đa quốc gia xem xét lại chiến lược sản xuất. Việc đưa sản xuất về xứ cờ hoa, dù có nhiều tốn kém, nhưng có thể tăng cường an ninh kinh tế trong dài hạn. Chính quyền Trump còn biến thuế quan thành đòn bẩy trên bàn đàm phán nhằm thúc ép các đối tác thương mại nhượng bộ. Một số nhà kinh tế nhận định, nếu được áp dụng khéo léo, chính sách thuế sẽ là cú hích tái thiết ngành sản xuất và thu hẹp thâm hụt thương mại. Dù vậy, những lợi ích này thường bị lấn át bởi chi phí kinh tế và xã hội rộng lớn hơn.
Mỹ đang tự gây tổn thương cho mình
Với tham vọng bảo vệ ngành công nghiệp nội địa, giảm thâm hụt thương mại và khôi phục vị thế kinh tế, tổng thống Donald Trump đã sử dụng thuế quan như một công cụ chiến lược, nhưng nó đang khiến lạm phát tăng cao, chuỗi cung ứng toàn cầu đảo lộn, thị trường tài chính đỏ lửa và Washington ngày càng bị cô lập trên bàn cờ quốc tế.
Sự phản đối mạnh mẽ từ trong nước lẫn quốc tế
Chính sách thuế đối ứng của Trump đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ trong nước lẫn quốc tế. Từ các chuyên gia của Quỹ Tiền tệ Quốc tế đến các giáo sư kinh tế ở Đại học Harvard đều chỉ trích chính sách này là thiếu cơ sở kinh tế và mang tính chính trị hơn là thực dụng. Peter Navarro, cố vấn thương mại của Trump, từng tuyên bố thuế quan sẽ bảo vệ người lao động. Nhưng thực tế cho thấy, chúng làm tăng giá tiêu dùng và gây thiệt hại cho chính người dân của nước này. Theo Viện Peterson, thuế quan thời Trump 1.0 làm cho mỗi hộ gia đình Mỹ mất thêm 1.200 USD mỗi năm do giá hàng hóa tăng, và con số này dự kiến còn tăng lên 2.000 USD vào năm 2025.
Trong nước, làn sóng phản đối đến từ cả hai đảng. Các thượng nghị sĩ Cộng hòa như Mitt Romney và Susan Collins bày tỏ lo ngại về nguy cơ suy thoái kinh tế, trong khi phe Dân chủ cáo buộc Trump đẩy lạm phát vượt tầm kiểm soát. Sự chia rẽ chính trị trở nên rõ rệt hơn khi biểu tình nổ ra ở những tiểu bang công nghiệp như Michigan và Ohio, nơi chịu ảnh hưởng nặng nề. Còn các tiểu bang tự do như California và New York lại bày tỏ sự ủng hộ chính sách cứng rắn của Trump. Các cuộc khảo sát của Gallup vào tháng 4 cho thấy có đến 53% người trưởng thành ở Mỹ lo ngại về lạm phát và mất việc làm, và chỉ 47% ủng hộ chính sách thương mại của ông chủ Nhà Trắng. Các doanh nghiệp nhỏ, vốn là xương sống của nền kinh tế Mỹ khi đóng góp đến 44% GDP, đang thấm đòn nặng nề. Giá nguyên liệu tăng vọt, thị trường xuất khẩu co cụm, và chỉ riêng quý 1 năm 2025 đã có gần 190 doanh nghiệp Mỹ nộp đơn phá sản. Đây là con số cao nhất trong 15 năm. Ngay cả những ông lớn như Amazon cũng phải chật vật xoay sở chi phí và không loại trừ khả năng đẩy giá bán lên cao hơn để tồn tại.
Trên trường quốc tế, các đồng minh truyền thống như Liên minh châu Âu và Nhật Bản không còn giữ thái độ trung lập. Đặc biệt, EU đe dọa sẽ áp thuế trả đũa lên các gã khổng lồ công nghệ như Apple và Google, qua đó thổi bùng căng thẳng thương mại xuyên Đại Tây Dương. Trước áp lực dồn dập, ông Trump buộc phải hoãn áp thuế trong 90 ngày, một bước lùi hiếm hoi để hạ nhiệt làn sóng phản đối.
Tác động đến kinh tế Mỹ và chuỗi cung ứng toàn cầu
Cuộc chiến thương mại cũng tác động sâu rộng đến kinh tế Mỹ và chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo Cục Dự trữ Liên bang, thuế quan đã đẩy lạm phát tại quốc gia này lên mức 6,2% vào tháng 4, cao hơn nhiều so với mục tiêu 2%. Thị trường chứng khoán như bị kéo tuột, với chỉ số S&P 500 giảm 8%, Nasdaq lao dốc hơn 10,5% và Dow Jones cũng giảm 1,3%. Đây là quý giảm điểm đầu tiên sau 6 quý tăng liên tiếp. Ngân hàng Morgan Stanley đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế của xứ cờ hoa trong năm nay từ 1,9% xuống còn 1,5%.
Các công ty như Tesla đang đối mặt với doanh số sụt giảm và nguy cơ tẩy chay ở các thị trường quốc tế. Điều đó khiến tỷ phú Elon Musk phải kêu gọi ông Trump từ bỏ mức thuế mới. Ngoài ra, các mặt hàng xuất khẩu từ xứ cờ hoa, đặc biệt là nông sản và công nghệ, có thể bị sụt giảm do những biện pháp trả đũa từ Trung Quốc và EU. Riêng đậu nành đã chứng kiến lượng xuất sang xứ tỷ dân giảm một nửa vào năm 2018, trong khi Bắc Kinh quay sang gom hàng từ Brazil, thậm chí áp thuế 135% lên hàng Mỹ và tạm ngừng giấy phép nhập khẩu từ tháng 3. Từ đây, hàng triệu nông dân Mỹ phải gồng mình đối mặt với cạnh tranh khốc liệt và thiệt hại kinh tế trong dài hạn.
Chuỗi cung ứng toàn cầu cũng không thoát khỏi vòng xoáy. Các công ty đa quốc gia như Apple và Tesla phải chuyển nhà máy từ Trung Quốc sang các nước như Việt Nam, Ấn Độ và Mexico. Tuy nhiên, theo như Công ty tư vấn Boston Consulting Group, quá trình này tốn kém và mất nhiều năm, với chi phí ước tính lên đến 1.700 tỷ USD cho các công ty Mỹ. Hơn nữa, những quốc gia thay thế không thể ngay lập tức đáp ứng nhu cầu về lao động và cơ sở hạ tầng từ các nước khác như Trung Quốc. Điều đó dẫn đến tình trạng thiếu linh kiện trầm trọng, từ chip bán dẫn đến phụ tùng ô tô, làm cho sản xuất đình trệ và giá thành leo thang. Ở Mexico, sản lượng lắp ráp ô tô đã giảm 30%, còn Đông Nam Á chứng kiến nguy cơ mất việc hàng loạt khi các công ty loay hoay điều chỉnh chiến lược.
Trớ trêu thay, chính chiến lược thuế quan của Trump lại làm tổn thương các ngành công nghiệp mà ông cam kết bảo vệ. Trong đó, ngành công nghệ cao, vốn là động lực tăng trưởng của nước này, đang chịu ảnh hưởng nặng nề do gián đoạn chuỗi cung ứng và chi phí tăng cao. Các công ty như Intel và Nvidia phụ thuộc vào chất bán dẫn từ Đông Á, nhưng thuế quan đối với linh kiện điện tử từ Trung Quốc và Việt Nam đã làm tăng giá thành sản xuất, khiến giá chip bán dẫn tại Mỹ tăng 15% trong quý đầu năm 2025. Nhà gia công chip lớn nhất thế giới là TSMC của Đài Loan dự kiến tăng giá wafer silicon từ 5 – 10% trong năm nay. Cùng với đó, Nvidia và AMD cũng đang đẩy mạnh sản xuất và vận chuyển card đồ họa thế hệ mới trước khi các mức thuế quan mới có hiệu lực, khiến tăng giá bán lên đến 40%. Việc tăng chi phí làm giảm sức cạnh tranh của họ trên thị trường toàn cầu và cản trở nỗ lực tự chủ công nghệ, vốn là ưu tiên của chính quyền Trump trong chiến lược công nghiệp và an ninh quốc gia.
Bên cạnh đó, ngành ô tô, vốn là biểu tượng của giấc mơ công nghiệp Mỹ, cũng không tránh khỏi đòn đau khi mà thuế quan áp lên thép và nhôm nhập khẩu làm chi phí sản xuất xe tăng cao. Các hãng như Ford và General Motors buộc phải cắt giảm sản lượng và việc làm tại các tiểu bang như Ohio và Michigan. Trong khi Trump lập luận rằng thuế quan sẽ khuyến khích sản xuất nội địa, nhưng thực tế cho thấy các công ty đang chuyển nhà máy sang các nước có chi phí thấp hơn như Ấn Độ hoặc Indonesia. Báo cáo của Viện Brook King cho biết, chỉ 4% các công ty của quốc gia này có kế hoạch xây dựng nhà máy mới trong nước do thiếu lao động lành nghề và chi phí năng lượng cao.
T.P