Nhắc tới vụ giải cứu phi công Mỹ, Fenn gọi đó là “chìa khóa thần kỳ mở toang những cánh cửa tưởng chừng như bất khả xâm phạm”.

Ngày 10/3/1945, đặc vụ của Văn phòng Tình báo Chiến lược Mỹ (OSS) tại trụ sở ở Côn Minh, Trung Quốc nhận được tin: “Người Nhật đã chiếm cứ mọi vị trí khắp Đông Dương”. Đó là tất cả những gì họ nghe ngóng được từ Việt Nam vào ngày hôm đó.
Tới khi liên hệ với Phái bộ Quân sự Pháp (FMM) ở Côn Minh, họ mới biết rằng toàn bộ đặc vụ ở Việt Nam đều im hơi lặng tiếng. Không lâu sau đó, những nhân viên trực điện đài đã thấy được mức độ ảnh hưởng của sự im lặng ấy đối với sứ mệnh của Đồng minh.
Trước đó 1 ngày, Nhật Bản đã tiến hành Chiến dịch Meigo, đảo chính Pháp, chấm dứt sự đô hộ của Pháp ở Việt Nam. Điều đó khiến mạng lưới tình báo của Đồng minh tại Đông Dương bị sụp đổ. Quân Đồng minh lâm vào tình thế khó bởi họ cần thông tin khí tượng và nắm được hoạt động chuyển quân của phát xít Nhật trong khu vực.
Vậy là, bất chấp cảnh báo của Pháp, Văn phòng Tình báo Chiến lược của Mỹ (OSS) quyết định tìm cách thiết lập mạng lưới với người bản địa. Và họ tiếp cận một người Việt, người đã thu hút sự chú ý của Không đoàn 14 cách đó 1 năm, khi ông đưa một viên phi công Mỹ bị bắn hạ rời khỏi Việt Nam, trở về căn cứ của quân Đồng minh ở Trung Quốc.
Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Quân đội Mỹ là bạn ta cứu phi công Mỹ mới là Việt Nam
Ngày 2/11/1944, Trung úy Rudolph Shaw, một phi công Mỹ thuộc Không đoàn 14 của phe Đồng minh đã buộc phải đáp xuống vùng ven Cao Bằng trong tình trạng bị Pháp và Nhật truy đuổi. Anh đã được cán bộ Việt Minh cứu giúp. Câu chuyện được Shaw kể lại trong cuốn nhật ký đề tựa “Đông Dương thực thụ”.
“Ngay khi tôi đáp xuống, một người Đông Dương trẻ tuổi tiến đến, vừa mỉm cười, vừa thân mật bắt tay tôi và ra hiệu cho tôi đi theo. Tôi đưa cho anh ta 600 đô la Đông Dương. Anh ta quả quyết không nhận và trông có vẻ khá mếch lòng. Phản ứng đó khiến tôi ngỡ ngàng và nghĩ rằng ngần ấy tiền là chưa đủ. Tôi đúng là mắc sai lầm lớn! Điều mà tôi cứ ngỡ lòng tham hóa ra lại là phẩm chất thường thấy ở những người Đông Dương yêu nước. Họ giúp chúng tôi không phải vì tiền, mà vì lòng thương yêu và tình bằng hữu. Họ biết rằng chúng tôi chiến đấu không chỉ cho nước Mỹ, mà còn cho tự do và dân chủ khắp thế giới, bởi đất nước họ cũng vậy”.
Những ngày sau đó, lính Pháp và lính Nhật lấy đi chiếc máy bay Shaw lái, rồi lùng sục dấu vết của anh ở trong rừng và cả những ngôi làng xung quanh. Các cán bộ Việt Minh đã đưa Shaw đi ẩn náu hết nơi này đến nơi khác.
Trong thời gian đó, anh được đưa tới gặp “một người yêu nước” nói tiếng Anh. Ông kể về tổ chức của mình, trấn an Shaw và đảm bảo anh sẽ tuyệt đối được an toàn khi “ở với chúng tôi”. “Người yêu nước” mà Shaw nhắc đến là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bác Hồ cũng chính là người sau này đưa Shaw rời khỏi Việt Nam, trở về Trung Quốc.
“Tháng 12, những người bạn Đông Dương đưa tôi quay trở về Trung Quốc. Khi chia tay, họ dặn đi dặn lại tôi phải gửi lời chào thân ái nhất tới quân đội và nhân dân Mỹ. Bắt tay nhau lần cuối, họ hô vang: “Nước Mỹ muôn năm! Roosevelt muôn năm! Tướng Chennault muôn năm!”, và tôi hô to đáp lại: “Đông Dương muôn năm! Việt Minh muôn năm!” – Shaw kể lại trong nhật ký của mình.
Câu chuyện của Shaw có vẻ khó tin với một số người ở tổng hành dinh, nhưng sự thật về cuộc giải cứu và thực tế rằng anh đã trở về an toàn đã gây ấn tượng mạnh với nhiều người, trong đó có Trung úy Charles Fenn của OSS.
Chiếc chìa khóa thần kỳ
Trước tháng 3/1945, các tổ chức tình báo hoạt động ở Đông Dương thuộc Pháp nhằm thu thập tin tức về phát xít Nhật đều ngại ngần trước viêc chiêu mộ người Việt làm đặc vụ, bởi người Pháp nói rằng dân An Nam không đáng tin cậy, chỉ muốn lấy vũ khí đánh Pháp, chứ không phải đánh Nhật.
Tuy nhiên, khi các đầu mối Pháp trong đường dây tình báo của họ bị đứt gãy sau cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương, tình thế thay đổi. 14 oanh tạc cơ của Không lực Mỹ buộc phải ngừng thực thi nhiệm vụ do thiếu báo cáo khí tượng và thông tin mục tiêu. Việc thiết lập mạng lưới với người bản địa trở nên khẩn thiết. OSS phải tìm tới người Việt và Charles Fenn bỗng nhớ đến Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Fenn hỏi thăm Ravenholt, người phóng viên đã ghi lại câu chuyện về cuộc giải cứu Trung úy Shaw, về nơi ở của Bác Hồ. Thời điểm ấy, Bác sống ở một căn phòng nhỏ, tối tăm phía trên một tiệm nến ở Côn Minh (Trung Quốc) và dành phần lớn thời gian của mình trong Văn phòng Thông tin Chiến tranh của Mỹ (OWI) để đọc mọi thứ, từ Tạp chí Time cho tới Bách khoa Toàn thư.
OWI rất ấn tượng bởi vốn tiếng Anh, sự thông tuệ và mối quan tâm rõ rệt của Bác Hồ đối với nỗ lực của phe Đồng Minh ở châu Á – Thái Bình Dương.
“Lần đầu tiên tôi gặp ông Hồ là ngày 17/3/1945 tại Văn phòng Thông tin Chiến tranh ở Côn Minh”, Fenn kể trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Lloyd Shearer năm 1973, “Sở dĩ tôi có thể nhớ chính xác ngày tháng bởi tôi vẫn còn giữ vài đoạn nhật ký”.
“Hồi đó tôi là một đặc vụ của OSS, Văn phòng Tình báo Chiến lược, tiền thân của CIA. Nhiệm vụ của tôi là làm việc với một nhóm tình báo khác hoạt động ở Đông Dương, gọi là GBT – viết tắt từ tên của 3 nhân viên trong khối Đồng Minh”.
“Họ có quan hệ rất tốt với người Pháp và cung cấp cho phe Đồng Minh nhiều tin tình báo tuyệt vời ở Việt Nam, cho tới khi người Nhật loại trừ đầu mối Pháp của họ. Tôi được lệnh thay thế các đầu mối này bằng mạng lưới tình báo người Việt”.
“Côn Minh hồi đầu năm 1945 có rất nhiều người Việt, gọi là người An Nam”, Fenn nhớ lại, “Nhưng chúng tôi lại được cảnh báo không tiếp cận họ bởi dường như không ai biết họ có đáng tin cậy hay không”.
“Một sĩ quan tôi quen ở AGAS, một cơ quan tình báo khác của Mỹ, nói với tôi rằng, ở Côn Minh có một người An Nam từng giải cứu phi công Mỹ rơi xuống Việt Nam – Trung úy Shaw và điều hành một nhóm chính trị tương đối lớn ở Việt Nam”.
Vậy là một cuộc gặp gỡ đã được thu xếp vào lúc 11 giờ sáng 17 tháng 3 năm 1945.
Bác Hồ tới đó cùng ông Phạm Văn Đồng và ba người đã trò chuyện bằng tiếng Pháp. Fenn đã hỏi Bác Hồ rằng: ông hy vọng đạt được những gì từ các quan chức OSS. “Chỉ là một sự công nhận”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đáp.
Trong cuộc gặp, Fenn giải thích về nhu cầu của OSS, nói rằng họ cần có các nhân viên điện đài ở Đông Dương. Khi được hỏi đổi lại ông muốn những gì, Bác nói: “Vũ khí và thuốc men”.
Dù hôm đó hai bên chưa đi đến một thỏa thuận chính thức nhưng Fenn có ghi lại trong nhật ký là ông rất “ấn tượng với lối nói chuyện khúc chiết và sự điềm tĩnh giống đức Phật” của Bác Hồ.
Sau này, nhắc tới vụ giải cứu phi công Mỹ, Fenn gọi đó là “chìa khóa thần kỳ mở toang những cánh cửa kiên cố”. Sự nồng hậu và chân thành của cán bộ Việt Minh, cũng như nhân dân Việt Nam dường như đã cảm hóa và thay đổi cách nhìn của người Mỹ về đất nước mà họ vốn chỉ coi là một thuộc địa không đáng chú ý của Pháp xuyên suốt giai đoạn Thế chiến II.
Trong báo cáo gửi Tướng Albert Wedemeyer – Tổng chỉ huy quân Mỹ đóng tại Trùng Khánh (Trung Quốc), Tướng Claire Lee Chennault – Tư lệnh Không đoàn 14 “Hổ bay” của Mỹ bày tỏ rõ ràng quan điểm của mình về việc hợp tác với Việt Minh:
“Tôi hoàn toàn ủng hộ việc duy trì quan hệ hữu hảo với mọi tổ chức tại Đông Dương thuộc Pháp có khả năng hỗ trợ hiệu quả cho việc giải thoát các quân nhân Mỹ, những người có thể cần đến sự giúp đỡ tại nước này, bất kể khuynh hướng chính trị của họ”.
Cuộc gặp giữa bác Hồ và tướng, bức ảnh kỷ niệm và 6 khẩu súng lục
Ngày 29/3/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Tướng Chennault – người được coi là anh hùng trên chiến trường châu Á -Thái Bình Dương trong Thế chiến II – tại Tổng hành dinh của ông. Cuộc gặp có sự tham gia của Fenn và Bernard (nhân viên tình báo của GBT).
Tướng Chennault bày tỏ sự cảm kích với Bác Hồ về vụ giải cứu phi công Shaw và được Bác đáp lại rằng Bác luôn vui lòng giúp đỡ người Mỹ. Trong không khí thân mật, cởi mở, hai người nói về hoạt động của Không đoàn Hổ bay và bàn chuyện cứu sống thêm nhiều phi công nữa.
Trước khi ra về, Tướng Chennault đã tặng Bác một tấm ảnh chân dung cỡ 8×10 và tự tay viết lời đề tặng ở mặt sau.
Trong các cuộc họp sau đó giữa OSS và Việt Minh, quy trình hợp tác đã được vạch ra. Phía Việt Nam sẽ trợ giúp Mỹ trong quá trình thu thập tin tình báo và khí tượng để chống phát xít Nhật ở phía Bắc Đông Dương, và cứu giúp phi công Đồng minh gặp nạn tại đó. Còn quân Đồng minh sẽ hỗ trợ Việt Nam về vũ khí, thiết bị và công tác huấn luyện.
Trước khi khởi hành, Fenn đã trao cho Bác Hồ 6 khẩu súng lục tự động Colt 45 mới tinh. Số lượng có thể coi là ít ỏi nhưng 6 khẩu súng này và tấm ảnh có bút tích của Tướng Chennault được giáo sư sử học người Mỹ Dixee Bartholomew-Feis đánh giá là những yếu số sẽ mang lại kết quả cực kỳ quan trọng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc kháng chiến.
Sáng sớm ngày 15/4, Frank Tan – nhân viên tình báo của GBT và Mac Shin – nhân viên điện đài người Hoa cùng 20 người (được Bác Hồ chỉ đạo tới làm nhiệm vụ hộ tống, bảo vệ họ trước quân Nhật và cướp giật) lên đường di chuyển qua biên giới.
Bác Hồ đi cùng họ trong chặng cuối của hành trình tới Việt Bắc, một chuyến đi được Tan mô tả là khó khăn với điều kiện địa hình gập ghềnh. Ông nhớ có lúc mình đã muốn bỏ cuộc, nhưng Bác Hồ đã khích lệ Tan đi tiếp, giải thích rằng ở đó quá nguy hiểm và không còn con đường nào khác dẫn tới căn cứ địa của Việt Minh.
Mac Shin cũng nhắc tới rất nhiều khó khăn trong chuyến hành trình dài, đặc biệt là tình trạng thiếu lương thực và nước uống. Bác Hồ đã chỉ cho họ vô vàn công dụng của cây tre – dùng để lấy nước, làm thực phẩm – và về giá trị của muối đối với cơ thể con người. Bác nói: “Mac, hãy nhớ rằng, muối còn quý hơn vàng”.
Sau hai tuần gian khổ, 2 nhân viên tình báo Mỹ mới đặt chân tới căn cứ Việt Bắc, nơi được Tan mô tả là một “trụ sở” không mấy ấn tượng – thực chất chỉ là một “lán nhỏ ở lối vào [hang Pắc Bó] bên cạnh một thác nước”.
Từ đây, hoạt động của OSS tại Việt Nam và mối quan hệ hợp tác giữa cơ quan tình báo Mỹ với lực lượng Việt Minh chính thức bắt đầu.
T.P