Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa đã được các thế hệ tiền nhân áp dụng hiệu quả thông qua những biện pháp bang giao hòa hiếu, giữ gìn quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, đồng thời chú trọng củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội vững mạnh. “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”, “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy”, v.v… đấy chính là nội hàm của chiến lược “quốc phú binh cường, nội yếu ngoại tĩnh” giúp tạo nên nền tảng cho sự trường tồn của đất nước.
Bước sang thời đại Hồ Chí Minh, các chiến lược này tiếp tục được kế thừa, phát huy, phát triển phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững, chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”. Ngày nay, trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã kế thừa, sáng tạo, vận dụng linh hoạt di sản của cha ông, đưa lên thành chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa nói chung, cũng như bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng nói riêng, với nội dung ngày càng đa dạng và toàn diện.

Nội hàm cơ bản về chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng ta
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa được xác định rõ trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đó là: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Chính sách quốc phòng “bốn không” trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 đã thể hiện rất rõ tư tưởng trên.
Như vậy có thể hiểu, thời gian để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là phải có sự chuẩn bị, chủ động từ thời bình, từ lúc nước chưa nguy; không gian để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa không chỉ là bên trong lãnh thổ, mà còn từ bên ngoài lãnh thổ. Mấu chốt của thượng sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là ngăn chặn xung đột, hóa giải và không để chiến tranh nổ ra; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa đã được Đảng ta phát triển lên một tầm cao mới, với những nội hàm chủ yếu sau đây: 1/ Chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng, là định hướng chiến lược, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. 2/ Xác định bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là sự nghiệp của toàn dân, trong đó lực lượng Quân đội, Công an là nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. 3/ Tích cực, chủ động nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược; giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. 4/ Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao thế, lực, uy tín của đất nước.5/ Thường xuyên chăm lo xây dựng đất nước vững mạnh về mọi mặt, tạo nền tảng vật chất, tinh thần để chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Kiến nghị một số giải pháp cơ bản trong chiến lược bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc từ sớm, từ xa
Bảo vệ Tổ quốc trước hết là bảo vệ chủ quyền của dân tộc và lãnh thổ của đất nước. Biển, đảo là một phần lãnh thổ thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc, là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc ta. Do đó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa không chỉ bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ trên đất liền, trên không, mà còn có cả bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ biển, đảo của Tổ quốc; là bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước; là sự kết hợp chặt chẽ, toàn diện giữa quốc phòng, an ninh, kinh tế, chính trị, ngoại giao, pháp lý, lịch sử và xã hội, nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Để thực hiện chiến lược này, chúng ta đã và cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt các nội dung kế sách sau:
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
Mục tiêu sâu sắc của hoạt động này là đảm bảo toàn thể cán bộ các cấp và nhân dân đều nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của biển, đảo không chỉ dưới góc độ lãnh thổ mà còn như một không gian sinh tồn và phát triển của dân tộc trong tương lai. Khi mọi công dân đều có chung hiểu biết và nhận thức, xã hội sẽ hình thành sự đồng thuận mạnh mẽ đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chủ quyền tại Biển Đông. Nói cách khác, điều này góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc – nền tảng cho sức mạnh quốc gia nói chung và cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng. Hơn thế, đây cũng là việc làm để đấu tranh, phản bác, làm thất bại mọi âm mưu, ý đồ xuyên tạc, gây chia rẽ nội bộ trong vấn đề Biển Đông của các thế lực thù địch. Phương thức để triển khai là thông qua chương trình giáo dục trong nhà trường với các hình thức đa dạng, sinh động; thông qua các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội để lan tỏa thông tin chính thống, các câu chuyện truyền cảm hứng về những người đang ngày đêm bám biển, giữ đảo, các bài viết chính luận sắc sảo, lập luận chặt chẽ trong đấu tranh, phản biện và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của đất nước; xây dựng các sản phẩm truyền thông hiện đại, như phim tài liệu, phóng sự, video ngắn… để tiếp cận các tầng lớp nhân dân, nhất là giới trẻ. Phát huy vai trò của văn hóa, nghệ thuật nhằm nuôi dưỡng tình yêu và niềm tự hào dân tộc về chủ quyền biển, đảo một cách tự nhiên và sâu sắc.
Thứ hai, phát triển nhanh, mạnh và bền vững kinh tế biển
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tài nguyên đất nước qua hình ảnh “rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”. Câu nói hàm súc này nhấn mạnh vị thế của biển như một thành tố cốt lõi của tài nguyên quốc gia, một không gian sinh tồn và là nguồn lực trọng yếu cho sự phát triển của đất nước. Trong bối cảnh hiện nay, việc phát triển kinh tế biển một cách nhanh, mạnh và bền vững không chỉ mang ý nghĩa kinh tế đơn thuần mà còn là một kế sách bảo vệ chủ quyền sâu sắc và toàn diện.
Trước hết, phát triển kinh tế biển nhằm tạo dựng sự hiện diện dân sự thường xuyên, liên tục trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc, qua đó khẳng định chủ quyền một cách hòa bình và hữu hiệu. Chúng ta khẳng định chủ quyền dựa trên cơ sở phù hợp với luật pháp quốc tế và có quyền triển khai mọi hoạt động kinh tế hợp pháp trong các vùng biển của mình. Sự có mặt của ngư dân bám biển, các hoạt động du lịch, nghiên cứu khoa học hay khai thác dầu khí trên các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam là những bằng chứng sống động, không thể chối cãi về việc chúng ta thực thi quyền làm chủ của mình phù hợp luật pháp quốc tế. Đây cũng là lời khẳng định đanh thép, bác bỏ luận điệu phi lý của một bộ phận mang tư tưởng bành trướng cực đoan tại Trung Quốc cho rằng hoạt động kinh tế của Trung Quốc tới đâu, chủ quyền của họ vươn tới đó, trong khi thực chất lại vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và chủ quyền hợp pháp của các nước khác.
Hơn thế nữa, khi kinh tế biển phát triển, đời sống người dân ấm no, các doanh nghiệp thịnh vượng, chính họ sẽ trở thành những người bảo vệ chủ quyền biển đảo tích cực và kiên quyết nhất. Sự gắn kết hữu cơ giữa lợi ích kinh tế với chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc sẽ biến mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp thành những “cột mốc chủ quyền” kiên cường, góp phần tạo nên thế trận lòng dân vững chắc trên biển
Bên cạnh đó, cần nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh trên biển. Một nền kinh tế biển vững mạnh sẽ tạo ra nguồn lực vật chất dồi dào để hiện đại hóa lực lượng vũ trang, tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc biển, đảo. Ngược lại, một nền quốc phòng, an ninh vững mạnh sẽ là lá chắn tin cậy, bảo đảm môi trường hòa bình, an toàn cho các hoạt động kinh tế biển diễn ra thuận lợi và bền vững. Có thể khẳng định, phát triển kinh tế biển là một “biện pháp mềm” nhưng đóng vai trò then chốt trong chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo từ sớm, từ xa. Đây không chỉ là nền tảng vật chất để gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia mà còn là phương thức hữu hiệu để khẳng định và thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông.
Thứ ba, xây dựng quân đội nhân dân, đặc biệt là lực lượng hải quân, cảnh sát biển ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo từ sớm, từ xa
Chúng ta chủ trương xây dựng sức mạnh quân sự, quốc phòng không phải để gây chiến, xâm lược bất cứ ai, mà là để ngăn chặn ý đồ gây chiến, xâm lược của đối phương. Nếu ta có một lực lượng hải quân, không quân, cảnh sát biển đủ mạnh thì sẽ làm cho bất kỳ thế lực nào cũng phải cân nhắc kỹ trước khi có hành động phiêu lưu trên biển. Mặt khác, khi lực lượng hải quân, cảnh sát biển vững mạnh thì mới đủ khả năng tuần tra, kiểm soát, duy trì an ninh, an toàn hàng hải, cứu hộ cứu nạn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trên các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Hơn nữa, trước tình hình an ninh Biển Đông ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, căng thẳng, trong tình huống xấu nhất, khi các biện pháp hòa bình không còn hiệu quả, lực lượng vũ trang phải đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Vì thế, để đạt được những yêu cầu trên, có rất nhiều việc phải làm, trong đó cần tập trung hiện đại hóa đồng bộ sức mạnh quân sự, quốc phòng cả trên biển, trên không lẫn trên bờ; làm chủ vũ khí, trang bị và công nghệ; xây dựng lực lượng dân quân biển trở thành những “cánh tay nối dài” để họ phối hợp hiệu quả với các lực lượng chính quy trong việc tuần tra, phát hiện mục tiêu, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Thứ tư, đấu tranh trên mặt trận pháp lý, ngoại giao, coi đây là “mũi nhọn” trong thời bình
Đây là kế sách đấu tranh thông minh, hiệu quả, tận dụng sức mạnh của công lý, lẽ phải và luật pháp quốc tế cũng như sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc. Mục tiêu cốt lõi của kế sách này là bảo vệ công lý, chính nghĩa và luật pháp quốc tế, giúp thế giới hiểu rằng, chủ quyền và mọi hành động thực thi các quyền và lợi ích của Việt Nam trên Biển Đông là hoàn toàn tuân thủ và dựa trên cơ sở vững chắc của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982. Từ đó, có thể tranh thủ sự ủng hộ của các nước, các tổ chức quốc tế, các học giả có uy tín trên thế giới để tạo thành một mặt trận rộng rãi ủng hộ lập trường của Việt Nam, bác bỏ các yêu sách và hành động phi pháp. Hơn nữa, thông qua đối thoại, đàm phán và các cơ chế hợp tác để tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, đồng thời quản lý các bất đồng để không leo thang thành xung đột vũ trang.
Để triển khai hiệu quả các giải pháp liên quan, cần mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động ngoại giao với các quốc gia liên quan, nhằm duy trì đối thoại, xây dựng sự tin tưởng và xử lý các vấn đề phát sinh. Chủ động đưa vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự của nhiều diễn đàn khu vực và quốc tế như Liên hợp quốc, ASEAN, ARF, EAS… góp phần thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề, tìm kiếm sự đồng thuận và các giải pháp dựa trên luật pháp. Việc hình thành đội ngũ chuyên gia am hiểu về pháp lý, lịch sử, luật biển, đại dương và quan hệ quốc tế cũng đóng vai trò cần thiết để tham gia tranh luận, hội thảo quốc tế, bảo vệ quan điểm của Việt Nam, đồng thời có thể đảm nhận vai trò trọng tài hay thẩm phán tại các tòa án quốc tế về Luật Biển. Những nỗ lực này giúp tăng cường khả năng bảo vệ quyền lợi biển của Việt Nam.
Thứ năm, tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoc học – công nghệ, coi đây là “mắt thần” và “đòn bẩy” để bảo vệ chủ quyền biển, đảo từ sớm, từ xa
Khoa học – công nghệ là yếu tố gia tăng sức mạnh theo cấp số nhân, giúp chúng ta “biết mình, biết người” và làm chủ không gian biển một cách hiệu quả. Có khoa học – công nghệ thì mới có thể giúp chúng ta nâng cao khả năng nhận thức biển, bao gồm cả trên mặt nước, dưới lòng biển và trên không trong thời gian thực, từ đó đưa ra quyết sách kịp thời, chính xác; hiểu rõ về tài nguyên, hệ sinh thái biển để có thể khai thác hiệu quả mà không hủy hoại môi trường, đảm bảo sự phát triển lâu dài; giúp các ngành kinh tế biển của Việt Nam có sức cạnh tranh cao hơn, đồng thời tạo ra các phương thức bảo vệ chủ quyền mới, hiệu quả hơn.
Để triển khai nội dung kế sách này, cần tập trung vào ba vấn đề chính bao gồm: 1/ Đẩy mạnh đầu tư cho các chương trình điều tra, khảo sát cơ bản về hải dương học, địa chất biển và đa dạng sinh học. Những dữ liệu thu thập được từ các hoạt động này nên được xem là nguồn thông tin quan trọng ở cấp quốc gia. 2/ Xây dựng một hệ thống giám sát biển đa lớp, tích hợp thông tin từ vệ tinh, radar bờ, hệ thống nhận dạng tự động (AIS), máy bay không người lái (UAV) và các thiết bị ngầm (UUV). 3/ Nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ năng lượng tái tạo như điện gió ngoài khơi, công nghệ nuôi trồng và chế biến thủy sản tiên tiến, công nghệ xử lý môi trường biển… Những giải pháp được đề cập trên đây nhấn mạnh rằng, bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước từ sớm và từ xa là một quá trình đòi hỏi sự huy động tổng thể mọi nguồn lực quốc gia, trong đó bao gồm các lực lượng kinh tế, quốc phòng, ngoại giao, khoa học – công nghệ, lịch sử, xã hội… Sự phối hợp hiệu quả, nhịp nhàng giữa các lực lượng này giữ vai trò quyết định trong việc tạo ra sức mạnh tổng hợp vững chắc. Việc quán triệt, thực hiện tốt và thường xuyên cập nhật các nội dung, chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo từ sớm, từ xa chính là hiện thực hóa mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong thời bình, tránh xung đột, chiến tranh; là biện pháp tối ưu bảo đảm an ninh cho Tổ quốc. Hiệu quả của những giải pháp này không chỉ giúp giữ vững toàn vẹn lãnh thổ, mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển thịnh vượng, bền vững từ nguồn lực biển, đảo cho Việt Nam trong thế kỷ 21.