Wednesday, December 17, 2025
Trang chủBiển ĐôngNửa năm cầm quyền của Trump và vấn đề Biển Đông

Nửa năm cầm quyền của Trump và vấn đề Biển Đông

6 tháng sau khi Tổng thống Donald Trump nhậm chức nhiệm kỳ 2, chính sách Biển Đông của chính quyền Mỹ phần lớn vẫn tiếp tục theo quỹ đạo của Trump 1.0 và chính quyền Biden.

Cụ thể, Trump đã tập trung vào việc tận dụng vấn đề Biển Đông để tăng cường hợp tác an ninh với các đồng minh cả trong và ngoài khu vực. Mục tiêu của chiến lược này là xây dựng một liên minh hàng hải nhằm kiềm chế Trung Quốc, đồng thời khuếch đại các nỗ lực chính trị và truyền thông để định hình nhận thức quốc tế về mối đe dọa từ Trung Quốc. Sử dụng đối đầu và áp lực làm công cụ chính, chính sách Biển Đông của Trump tìm kiếm thêm đòn bẩy trong cuộc cạnh tranh chiến lược rộng lớn hơn với Trung Quốc. Tuy nhiên, cách tiếp cận này có thể làm trầm trọng thêm những bất ổn.

Tổng thống Donald Trump đã công bố Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ trong nhiệm kỳ đầu tiên, định vị Biển Đông là khu vực cốt lõi và mô tả các hoạt động của Trung Quốc tại đây là một hình thức bành trướng địa chiến lược theo kiểu “cắt lát salami”; đồng thời, coi các yêu sách phi pháp và những hành vi hung hăng của Trung Quốc bắt nạt cưỡng ép các nước láng giềng ven Biển Đông là thách thức đối với Washington.

Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Tổng thống Trump đã áp dụng lập trường quyết đoán hơn ở Biển Đông. Ông đã điều chỉnh các tuyên bố chính sách nhằm phủ nhận quyền và lợi ích của Trung Quốc trong khu vực, đồng thời ủng hộ những yêu sách của các nước như Việt Nam và Philippines. Ông Trump cũng áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với các thực thể và cá nhân Trung Quốc liên quan đến việc xây dựng các đảo và rạn san hô nhân tạo trong khu vực. Ngoài ra, ông còn tăng cường các hoạt động “tự do hàng hải” của Mỹ, nâng cấp trinh sát và các cuộc tập trận quân sự, đồng thời tích cực vận động các đồng minh trong và ngoài khu vực củng cố sự hiện diện quân sự tại khu vực.

Ngày 31/5/2025, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth đã tham dự Đối thoại Shangri-La và có bài phát biểu phác thảo tầm nhìn an ninh của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và chiến lược của nước này nhằm giải quyết thách thức được cho là từ Trung Quốc. Trong bài phát biểu của mình, Bộ trưởng Quốc phòng Hegseth đã cho rằng “Trung Quốc đang tìm cách trở thành một thế lực bá chủ ở châu Á. Họ hy vọng sẽ thống trị và kiểm soát trong khu vực năng động và quan trọng này thông qua việc tăng cường quân sự mạnh mẽ và sẵn sàng sử dụng vũ lực để đạt được mục tiêu, bao gồm cả chiến thuật vùng xám và chiến tranh hỗn hợp, Trung Quốc đã chứng minh rằng họ muốn thay đổi căn bản hiện trạng của khu vực.” Ngoài ra, ông Hegseth cũng cáo buộc “Trung Quốc đang quấy rối các nước láng giềng” và “thách thức chủ quyền, tự do hàng hải và hàng không” tại khu vực Biển Đông. Ông cho biết “bất kỳ nỗ lực nào nhằm đơn phương thay đổi hiện trạng ở Biển Đông và Chuỗi đảo thứ nhất[1] thông qua việc sử dụng vũ lực hoặc cưỡng ép đều không thể chấp nhận được”.

Lập trường mới nhất này của Mỹ cho thấy, trong bối cảnh cạnh tranh địa chiến lược ngày càng gia tăng với Trung Quốc, chính quyền Trump nhiệm kỳ 2 sẽ duy trì lập trường cứng rắn về Biển Đông và áp dụng các chính sách can thiệp quân sự thực chất hơn, thể hiện trên một số điểm sau:

Thứ nhất, Mỹ dự kiến sẽ tăng đáng kể mức viện trợ cho Philippines, định vị nước này là một “mắt xích quân sự” quan trọng ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Nhằm theo đuổi mục tiêu chiến lược chống lại Trung Quốc thông qua các biện pháp hàng hải, chính quyền Trump tiếp tục đường hướng chính sách của thời kỳ Biden bằng cách làm sâu sắc thêm liên minh Mỹ – Philippines. Washington đang tích cực ủng hộ Manila trong nỗ lực đẩy lùi Bắc Kinh, tái khẳng định các cam kết an ninh đồng thời đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa và trang bị vũ khí cho Quân đội Philippines. Điều này bao gồm việc thúc đẩy triển khai quân sự trong và xung quanh Biển Đông. Theo các chuyên gia quân sự, quan điểm chia sẻ gánh vác trách nhiệm phòng thủ với các đồng minh của chính quyền Trump nhiệm kỳ 2 đồng nghĩa với việc Manila sẽ phải chi tiêu nhiều hơn cho quốc phòng, nhưng cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ lớn từ Mỹ để nâng cao năng lực đối phó với các chiến thuật “vùng xám” của Trung Quốc ở Biển Đông.

Giới phân tích dự báo trong bối cảnh tranh chấp trên biển ngày càng căng thẳng, nhiều khả năng Washington sẽ cung cấp thêm hệ thống vũ khí tiên tiến cho Manila để trấn an đồng minh lâu đời nhất của họ ở châu Á. Trên thực tế, Mỹ đã đẩy nhanh việc triển khai các hệ thống vũ khí tiên tiến tại Philippines, mở rộng sự hiện diện của các khí tài chiến thuật như hệ thống tên lửa tầm trung Typhoon và hệ thống tên lửa chống hạm NMESIS. Mục tiêu là thiết lập một “mạng lưới hỏa lực ba tầng” có khả năng bao phủ Biển Đông và từ đó tăng cường khả năng chống lại các năng lực chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực (A2/AD) của Trung Quốc trong chuỗi đảo thứ nhất.

Mỹ cũng đưa những hệ thống vũ khí tiên tiến khác như máy bay không người lái trên biển và trên không (hệ thống vũ khí được thiết kế để đối phó với thiết bị không người lái tấn công ồ ạt máy bay không người lái trên biển và trên không) đến tham gia chương trình tập trận chung với Philippines trong năm nay. Sau các cuộc tập trận hệ thống NMESIS được Mỹ tiếp tục để lại cho đồng minh giống như cách họ đã làm với hệ thống tên lửa tầm trung Typhon mà Lầu Năm Góc đưa đến Philippines vào tháng 4/2024. Ngoài ra, còn nhiều hệ thống chống máy bay không người lái trên không và trên biển được để lại ở Philippines sau khi kết thúc tập trận. Hải quân Philippines có đơn vị chuyên vận hành thiết bị không người lái mặt nước sau khi tiếp nhận tàu mặt nước không người lái Mantas T12 và Devil Ray T38 do Mỹ sản xuất. Giới phân tích nhận định việc đưa các vũ khí tiên tiến tới Philippines tập trận rồi không rời đi được coi là cách thức để các vũ khí hiện đại của Mỹ hiện diện ở Philippines nhằm thiết lập sự răn đe mới như Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Hegseth đã tuyên bố.

Theo một số nguồn tin quân sự, Quân đội Mỹ còn đang có kế hoạch xây dựng kho thiết bị lớn nhất thế giới gần Căn cứ Hải quân Vịnh Subic ở Philippines. Sự phát triển này có thể đánh dấu sáng kiến hậu cần quân sự quan trọng nhất của Mỹ tại quốc gia này kể từ khi Quân đội Mỹ rút khỏi Philippines vào năm 1992. Mặt khác, Mỹ cũng đang xem xét mở rộng hợp tác công nghiệp quốc phòng với Philippines. Đầu năm nay, Washington cho biết hai bên đã xác định một số lĩnh vực hợp tác, bao gồm thiết bị không người lái, đạn dược và hỗ trợ hậu cần, bảo dưỡng và sửa chữa tàu và máy bay.

Thứ hai, Mỹ đang tăng cường sự tham gia tập thể và thể chế hóa ở Biển Đông cùng với các đồng minh. Kể từ khi Trump trở lại nắm quyền, ông đã sử dụng Philippines như một trục chiến lược. Các cuộc tập trận quân sự thường xuyên với Manila và các đồng minh châu Á – Thái Bình Dương khác ở Biển Đông đã được tiến hành – các hoạt động nhằm hội nhập sâu hơn vào mạng lưới quân sự Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương với lý do giải quyết các mối quan ngại an ninh khu vực. Cuộc tập trận chung Balikatan giữa Mỹ và Philippines năm nay đã đạt quy mô lịch sử, với sự tham gia lần đầu tiên của Nhật Bản và Úc dưới hình thức các đội đặc nhiệm.

Khi tiếp tục thể chế hóa hợp tác an ninh đa phương ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương trong thời kỳ Trump 2.0, Mỹ dự kiến sẽ tận dụng các cơ chế này như những công cụ và nền tảng cho các can thiệp trong tương lai vào Biển Đông. Phối hợp với Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và các nước khác, Mỹ đặt mục tiêu hình thành một “vành đai răn đe”. Washington cũng sẽ tăng cường năng lực hoạt động của các khuôn khổ tiểu đa phương như QUAD (Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc) và SQUAD (Mỹ, Nhật Bản, Philippines, Úc), giúp các liên minh này sẵn sàng chiến đấu và định hướng nhiệm vụ tốt hơn.

Ngoài ra, Quân đội Mỹ sẽ đẩy nhanh việc xây dựng và nâng cấp các căn cứ ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Philippines. Những nỗ lực này sẽ được tích hợp với các vị trí chiến lược khác, bao gồm Nhật Bản, Guam và Diego Garcia, để hình thành một “chuỗi can thiệp tiền phương” nhằm tái thiết hiệu quả cấu trúc răn đe của chuỗi đảo thứ nhất.

Thứ ba, Mỹ đang củng cố khuôn khổ chiến lược được gọi là “liên kết ba biển”. Theo chính sách của chính quyền Trump 2.0, sẽ có những nỗ lực mạnh mẽ hơn nhằm gắn kết Biển Đông, Eo biển Đài Loan và Biển Hoa Đông thành một vùng chiến trường duy nhất. Năm nay, cuộc tập trận quân sự Balikatan giữa Mỹ và Philippines đã mô phỏng rõ ràng một kịch bản xung đột ở Eo biển Đài Loan, phản ánh xu hướng quan tâm và can dự ngày càng tăng của Mỹ và Philippines trong một tình huống bất ngờ tiềm tàng của Đài Loan.

Trong cuộc tập trận Balikatan diễn ra từ ngày 21/4 – 9/5/2025 và cuộc tập trận Kamandag lần thứ chín diễn ra từ ngày 26/5 – 6/6/2025 (với sự tham gia của Mỹ, Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc và Anh) các bệ phóng tên lửa chống hạm NMESIS và hệ thống pháo phản lực HIMARS của Lục quân Mỹ đã được triển khai tới đảo Batanes của Philippines, nằm giữa đảo Luzon và Đài Loan. NMESIS – gồm xe tải chở 2 bệ phóng tên lửa có tầm bắn lên tới 185 km – là hệ thống phòng thủ bờ biển có thể ngăn chặn các tàu chiến trong trường hợp xảy ra xung đột trên vùng biển gần Philippines. Các cuộc tập trận bắn đạn thật được tiến hành, tập trung vào các hoạt động chống hạm. Đáng chú ý, các cơ sở quân sự mới của Mỹ chủ yếu đặt gần Kênh Bashi, ngăn cách đảo chính Luzon của Philippines với Đài Loan, phía Bắc Biển Đông. Washington cũng đã triển khai các hệ thống tên lửa chiến đấu mạnh mẽ đến Luzon, có khả năng tấn công các mục tiêu sâu trong đất liền Trung Quốc.

 Trong những tháng gần đây, Philippines đã có lập trường chủ động hơn trên  các vấn đề liên quan đến Đài Loan. Trong tương lai, Manila dự kiến sẽ tăng cường hợp tác với Quân đội Mỹ tại Eo biển Đài Loan, đặc biệt là trong việc hỗ trợ các nỗ lực của Mỹ nhằm thiết lập quyền kiểm soát trực tiếp đối với Kênh đào Bashi và các lối vào phía Nam của eo biển. Mục tiêu là có thể ngăn chặn sự di chuyển của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) ở phía Đông hòn đảo trong trường hợp xảy ra xung đột.

Cùng với đó, Hải quân Mỹ, Nhật Bản và Philippines còn tiến hành tập trận hàng hải chung ngoài khơi vùng biển Tây Nam Nhật Bản từ 16 đến 20/6/2025 nhằm tăng cường khả năng ứng phó và phối hợp giữa hải quân 3 nước hướng tới mục tiêu thúc đẩy một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Những động thái này cho thấy tính chất phối hợp, liên chiến trường trong các hoạt động chuẩn bị của Mỹ với các đồng minh trên ba vùng biển – Biển Đông, Eo biển Đài Loan và Biển Hoa Đông.

Giới quan sát nhận định mặc dù kể từ khi nhậm chức nhiệm kỳ 2, Tổng thống không có những phát biểu công khai đề cập tới Biển Đông, song trên thực tế chính quyền của Tổng thống Trump nhiệm kỳ 2 đã có những bước đi cụ thể tăng cường quan hệ đồng minh quân sự với Philippines – nơi được coi là chốt chặn quan trọng ngăn Trung Quốc khống chế, thôn tính Biển Đông để vượt qua chuỗi đảo thứ nhất và cũng là địa điểm lý tưởng chuẩn bị cho tình huống xấu trong trường hợp Bắc Kinh tiến hành một cuộc tấn công vũ trang đánh chiếm Đài Loan.

Tóm lại, nửa năm đầu tiên trong nhiệm kỳ 2 của chính quyền Trump, mặc dù phải bận rộn với cuộc chiến ở Ukraine và xung đột Trung Đông, song Washington vẫn coi việc ngăn chặn, kiềm chế Trung Quốc, bảo vệ lợi ích, duy trì ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, trong đó có Biển Đông là nhiệm vụ được ưu tiên. Trong bối cảnh đó, Philippines đã nhanh chóng nổi lên như một yếu tố đáng tin cậy và có ý nghĩa trong chiến lược răn đe tổng hợp do Mỹ dẫn đầu nhằm chống lại một Trung Quốc đang ngày càng hung hăng./.


[1] Chuỗi đảo thứ nhất là một chuỗi các quần đảo lớn đầu tiên ở Thái Bình Dương, trải dài từ Bán đảo Kamchatka (Nga) ở phía đông bắc xuống Bán đảo Mã Lai ở phía tây nam. Chuỗi này bao gồm Quần đảo Kuril, Nhật Bản, Lưu Cầu, Đài Loan, miền bắc Philippines và Borneo.

RELATED ARTICLES

Tin mới