Quần đảo Hoàng Sa là lãnh thổ của
Việt Nam.
Điều này từ xa xưa đã có nhiều cuốn sách sử của ta ghi lại, khẳng định chủ
quyền của nước ta đối với quần đảo này.
Bộ sách đầu tiên của Việt Nam viết về Hoàng Sa bằng chữ Hán là “Toàn tập
Thiên Nam
tứ chí lộ đồ thư” do tác giả Đỗ Bá soạn từ năm 1630 đến năm 1653. Trong 4 cuốn
sách của tổng tập đều có bản đồ địa lý phủ Tư Nghĩa và phủ Thăng Hoa (thuộc
tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam
hiện nay). Hoàng Sa khi ấy có tên gọi là “bãi cát vàng” dài khoảng 400 dặm,
rộng 20 dặm, “đứng dựng ở giữa biển”.
Sau đó trên 100 năm, nhà bác học Lê Quý
Đôn (1726 – 1784) khi làm Hiệp trấn tham tán quân cơ tại Thuận Hóa đã viết bộ
sách “Phủ biên tạp lục” gồm 6 quyển, trong đó, quyển 2 có phần viết về “Hình
thế núi sông, thành lũy, tại sở, đường sá, bến đò, nhà trạm hai xứ Thuận Hóa,
Quảng Nam” có nhiều đoạn ghi chép về quần đảo Hoàng Sa. Đây là một đoạn tả chi
tiết: “Đảo Đại Trường Sa trước kia có nhiều hải vật, lập đội Hoàng Sa để đi
lấy, đi ba ngày đêm thì đến… các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng
biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến…
bãi cát vàng dài ước chừng hơn 30 dặm”.
Người thứ ba đề cập đến chủ quyền Hoàng
Sa là nhà bác học lỗi lạc Phan Huy Chú (1782 – 1840), quê ở xã Sài Sơn (Quốc
Oai, Hà Tây). Ông là người tài giỏi có tiếng nhưng đi thi nhiều lần chỉ đỗ tú
tài, do đó được gọi là ông Kép Thầy (Chữ “Thầy” ở đây chỉ thiền sư Từ Đạo Hạnh,
quê Thanh Trì, Hà Nội, về tu luyện ở núi Sài Sơn, theo truyền thuyết sau khi
hóa đã đầu thai trở lại cõi tục dưới hình trạng vua Lý Thần Tông. Ngài được tôn
là bậc thầy, do đó, làng và núi Sài Sơn còn được gọi là làng Thầy, núi Thầy,
tiếng địa phương gọi là Thày). Năm Tân Tỵ (1821), ông làm Biên tu Trường Quốc
Tử Giám ở Huế, sau làm Hiệp trấn Quảng Nam. Trong 10 năm (1809 – 1819),
ông viết bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí”; ở phần “Dư địa chí” nghiên
cứu sự thay đổi bờ cõi, đất đai qua các đời có mục “Đạo Quảng Nam”, viết về phủ
Tư Nghĩa (tức Quảng Ngãi hiện nay). Trong mục này, Phan Huy Chú có đoạn viết
rất chi tiết về quần đảo Hoàng Sa và việc triều đình phong kiến nhà Nguyễn khai
thác hải vật quý ở đây như sau: “Tiền vương lịch triều (tức thời nhà Nguyễn),
đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy người thôn An Vĩnh luân phiên thay vào, lội trên
mặt nước để lấy (?), mỗi năm cứ đến tháng 3, nhận chỉ thị đi làm việc, đem theo
lương thực 6 tháng, đi 5 chiếc thuyền nhỏ, ra khơi ba ngày 3 đêm mới đến đảo
này, ở đó mặc tình tìm lấy, bắt cá mà ăn, lấy được rất nhiều đồ vật quý báu…
cùng lượm lấy khá nhiều hải vật, tháng 8 mới về, vào cửa Eo, về thành Phú
Xuân…”.
Theo mô tả của tác giả thì Nhà nước
phong kiến đương thời đã quy định việc tiến hành khai thác hải vật quý ở Hoàng
Sa theo một chu trình ổn định nhiều năm (“… mỗi năm cứ đến tháng 3…”) và
kéo dài công việc mỗi đợt khai thác trong nửa năm (“tháng 8 mới về”), theo cách
thức hoàn toàn tự chủ (“ở đó mặc tình tìm lấy”). Đó là những chi tiết rất quan
trọng mà nếu không phải chủ nhân của quần đảo thì không thể thực hiện được.
Phan Huy Chú đã thêm một lần khẳng định Hoàng Sa là một quần đảo giàu đẹp, là
lãnh thổ lâu đời thuộc chủ quyền của Việt Nam, không ai có thể đổi trắng thay
đen đến đòi chia sẻ chủ quyền.
Cùng thời với Phan Huy Chú và những
giai đoạn về sau, còn có nhiều sách tiếp tục viết về chủ quyền của ta đối với
quần đảo Hoàng Sa. Sách “Đại Nam
thực lục tiền biên”, bộ sử biên niên soạn năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), phần “Đại
Nam
thực lục chính biên” viết năm Mậu Thân (1848) ghi: Hoàng Sa thời xa xưa “tục
gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu”. Sách cũng cho biết, việc khảo sát Hoàng Sa được
tiến hành từ thời Nguyễn. Năm Bính Tý, niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816), vua ra
lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để xem xét và đo đạc
thủy trình. Sau đó, đến tháng 6 năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng cho dựng “thần
tử” ở Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi.
Năm 1876, Bố chánh Quảng Ngãi là Nguyễn
Thông (1827 – 1894) viết “Việt sử cương giám khảo lược”, 7 quyển, viết chung
với hai tác giả Bùi Ước và Hoàng Duy Tân, có nêu một chi tiết rất quan
trọng về chủ quyền của ta đối với Hoàng Sa: “Nước Việt Nam ta ở buổi sơ quốc
thường chọn những người đinh tráng ở hai bộ An Hải và An Vinh mà đặt đội Hoàng
Sa”.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” do đích thân
vua Tự Đức ra chỉ thị biên soạn, bắt đầu từ năm 1865 nhưng đến năm 1882 mới
xong. Sau đó, sách được soạn lại và đến năm Duy Tân thứ 3 (1910) mới hoàn
chỉnh.
Trong 17 quyển thì quyển 6, phần Quảng
Ngãi có nói về Hoàng Sa: “Phía Nam
kề tỉnh Bình Định… phía Bắc tiếp giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh Sa Thổ làm giới
hạn… Phía Tây Bắc nổi lên một cồn, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước…
gọi là “Bàn Than Thạch”.
Sách “Quốc triều chính biên toát yếu”
do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn năm 1909, gồm 6 quyển, trong đó có một đoạn
nói về quần đảo Hoàng Sa: “Năm Bính Thân thứ 17 (1836), tháng 12, tàu buôn Anh
Cát Lợi qua bãi Hoàng Sa, bị cạn ghé vào biển Bình Định hơn 90 người. Vua sai
tìm nơi cho ở và cấp tiền gạo”.
Những cuốn sách đầy ắp sử liệu nói trên đã khẳng định
đanh thép chủ quyền của nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa. Với nhà bác học toàn
tài Phan Huy Chú, bằng những trang viết về Hoàng Sa, đã thêm một lần chứng tỏ
tài năng đa dạng của mình và thể hiện tình yêu đất nước sâu nặng của một người
dân Phủ Quốc, xứ Đoài.