Tuesday, December 24, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaNghiên cứu Việt NamQUỐC GIA BIỂN VÀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VĂN HÓA BIỂN

QUỐC GIA BIỂN VÀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VĂN HÓA BIỂN

BienDong.Net: Trong cuộc đời nghiên cứu, TS Trần Đức Anh Sơn – Phó viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển kinh tế – xã hội thành phố Đà Nẵng – cho rằng hạnh phúc với ông chính là được cống hiến đúng nghĩa trong vai trò một nhà nghiên cứu lịch sử, mà theo ông “ngoài trách nhiệm chuyên môn, còn có trách nhiệm với quê hương, đất nước”.

BDN xin trân trọng giới thiệu nghiên cứu của ông về vấn đề biển Việt Nam và chính sách bảo tồn băn hoá biển trích trong tham luận tại một hội thảo khoa học về văn hoá biển đảo tổ chức tại tỉnh Khánh Hoà.

alt

TS Trần Đức Anh Sơn

1Từ hàng ngàn năm qua, người Việt đã sống chung, khai thác và chinh phục biển.

Biển giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của người Việt từ bao đời nay. Không chỉ mang lại nguồn sống, biển còn ảnh hưởng đến diễn trình lịch sử của dân tộc Việt Nam, đến đời sống văn hóa, tâm linh và tín ngưỡng của người Việt. Dấu ấn của biển đã hiện diện trong đời sống của tổ tiên người Việt từ thời kỳ tiền sử. Những di chỉ “đống vỏ sò” hay “cồn sò điệp” trong các nền văn hóa khảo cổ như: văn hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bàu Tró, văn hóa Thạch Lạc, văn hóa Hạ Long… là những dấu tích chứng minh rằng biển cả là nơi cung cấp nguồn sống chủ yếu cho các cộng đồng người tiền sử cư trú ở ven biển Việt Nam từ hàng ngàn năm trước. Những hoa văn “dấu vỏ sò” trên đồ gốm chính là dấu vết của biển trong đời sống kinh tế – xã hội của chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh ở Trung bộ Việt Nam. Những tàn tích thức ăn và công cụ lao động được thu nhặt, chế tác từ sản phẩm của biển đã cho thấy từ hàng ngàn năm trước, tổ tiên của người Việt đã xác định được vai trò “kinh tế biển” đối với đời sống của họ.

Người Việt đã biết dùng nước biển để làm muối từ hàng ngàn năm trước và kỹ thuật làm muối của người Việt cũng vô cùng độc đáo: nấu nước biển để lấy muối. Chính vì thế, mà trong khi người Hoa gọi dân làm muối là diêm dân, thì người Việt lại gọi người làm muối là táo hộ hay táo công. Cách thức làm muối độc đáo ấy không chỉ được phản ánh trong sách Đại Việt sử ký toàn thư mà còn được chứng thực bởi nghề làm muối ở làng Nại Hiên (thành phố Đà Nẵng) với những dấu vết còn lưu giữ trên thực địa và cả trong ký ức dân gian.

Không chỉ khai thác biển, người Việt còn biết chế biến những sản phẩm của biển thành những “đặc sản” để phục vụ cho nhu cầu ẩm thực của mình, mà nước mắm là “thành tựu” vĩ đại nhất mà người Việt đã phát minh trong quá trình sống chung với biển.

 Người Việt còn chinh phục biển bằng cách “quai đê, lấn biển”, “thau chua, rửa mặn” để biến những đầm lầy hoang vắng hoặc những vùng đất khô cằn ven biển thành những làng quê trù phú. Sự hình thành hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) vào thời Nguyễn (1802 – 1945) gắn liền với tên tuổi của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là một minh chứng điển hình.

2 – Cùng với quá trình quá trình sống chung, khai thác và chinh phục biển là quá trình xác lập chủ quyền và đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo

Từ thế kỷ XVI – XVII, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã cử những đoàn thuyền vượt biển đi giao lưu, buôn bán với các lân bang như Trung Hoa, Nhật Bản, Lưu Cầu, Nam Dương, Xiêm La… Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725) đã thành lập đội Hoàng Sa, dong thuyền đến các quần đảo Hoàng Sa và Bắc Hải (Trường Sa) để khai thác nguồn lợi hải sản, đo đạc hải trình, xác lập chủ quyền của Tổ quốc trên những vùng biển đảo xa xôi. Cư dân Việt từ các làng quê ven biển đã không quản ngại gian khó, vượt biển tìm đến những hòn đảo nằm giữa muôn trùng sóng dữ, vừa để khẩn hoang, lập làng làm nơi cư trú và mưu sinh muôn đời, vừa tạo nên những phên dậu vững chắc để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.

Những chuyến vượt biển ấy chính là tiền đề cho một ngành đóng thuyền phát triển mạnh mẽ vào thời chúa Nguyễn (1558 – 1786), thời Tây Sơn (1771 – 1802) và thời Nguyễn. Các chúa Nguyễn đã xây dựng một đội thuyền hùng hậu, đảm bảo cho các nhu cầu quốc phòng, giao thông và thương mãi. Theo Thomas Bowyear, một nhà buôn người Anh đến Đàng Trong trong 2 năm 1695 – 1696, thì lực lượng thủy quân ở Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu có đến 200 chiến hạm, mỗi chiếc có từ 16 đến 22 khẩu đại bác, 500 chiến thuyền nhỏ từ 40 đến 44 tay chèo; 100 chiếc thuyền lớn từ 50 đến 75 tay chèo… và những chiến thuyền này đều do xưởng thuyền của phủ chúa đóng. Nhờ vào lực lượng thủy quân hùng mạnh này mà quân đội của chúa Nguyễn Phúc Lan đã đánh bại một đội tàu của Hà Lan ở cửa Eo (cửa Thuận An, ở gần Huế) vào năm 1644.

Người Việt không chỉ đóng thuyền để lưu thông và chinh phục biển khơi mà còn đóng thuyền để xuất khẩu sang các nước láng giềng. Năm 1789, Nguyễn Ánh đã sai người đóng 40 đại chiến thuyền và hơn 100 ghe bầu cung cấp cho Xiêm La để đổi lấy vũ khí và sắt thép. Từ nửa sau thế kỷ XVIII, thương nhân người Hoa đã đến Đàng Trong thuê người Việt đóng thuyền để chở lúa gạo từ Nam Bộ đưa về Trung Quốc bán cả thuyền lẫn gạo. Thuyền đóng ra không chỉ để bán cho thương nhân người Hoa, mà bán cho cả thương nhân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tàu thuyền do người Việt đóng lúc ấy đã đạt trình độ kỹ thuật cao khiến người phương Tây phải khâm phục. Viên trung úy hải quân người Anh John White đến Việt Nam vào năm 1819 đã nhận xét trong cuốn hồi ký A Voyage to Cochinchina (Hành trình đến Nam Kỳ) rằng: “một đất nước có những chuyên gia tài giỏi, có thể đóng những con tàu tốt là thế, thì phải là một dân tộc đi biển rất cừ khôi”.

alt 

TS. Trần Đức Anh Sơn giới thiệu về các tư liệu tại triển lãm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – những bằng chứng lịch sử

Biển đã đi vào đời sống văn hóa và tâm linh của người Việt với những lễ hội cầu ngư, với tục thờ cúng cá ông, với những vị thần có gốc gác từ biển khơi hiện diện trong hệ thống thần linh của những cộng đồng cư dân ven biển. Biển cũng in đậm dấu vết trong kiến trúc nhà ở, trong việc chọn hướng nhà và cả trong việc gọi tên một số chi tiết kiến trúc nhà ở của người Việt.

3 – Việt Nam, một quốc gia biển phải có chính sách bảo tồn văn hóa biển

Hiện nay, nhà nước Việt Nam đang chủ trương xây dựng nước ta thành một “quốc gia biển”. Đó là một chủ trương đúng, nhưng các chính sách do nhà nước đề ra nhằm quảng bá hình ảnh và xây dựng Việt Nam trở thành một “quốc gia biển” thì chưa thực sự đắc dụng và hiệu quả như ở các nước láng giềng.

Tâm lý “sợ biển”, “quay lưng với biển” là một hiện thực lịch sử trong thái độ ứng xử với biển của người Việt. Tâm lý ấy là một trở ngại trong chiến lược xây dựng Việt Nam trở thành một “quốc gia biển” hùng mạnh trong khu vực. Người Việt chỉ có thể từ bỏ tâm lý “sợ biển” và thay đổi cách ứng xử với biển theo hướng tích cực một khi tiềm năng và nguồn lợi của biển được khai thác một cách an toàn và hiệu quả, nghề đi biển được bảo trợ và tôn vinh. Và quan trọng là, nhà nước phải có một chính sách bảo tồn và phát huy giá trị nền văn hóa biển một cách thiết thực và hiệu quả.

Ngày trước, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong không chỉ chăm lo phát triển ngành đóng thuyền mà còn chú trọng đến vấn đề xác lập và đấu tranh bảo vệ chủ quyền đối với những đảo và quần đảo ở ngoài khơi như Hoàng Sa, Bắc Hải (Trường Sa), Côn Lôn, Phú Quốc… Các chúa Nguyễn cũng đã phái những thương thuyền đi buôn bán, giao lưu với các “quốc gia biển” trong khu vực, vừa để mở rộng bang giao, vừa để phô trương thanh thế của mình. Những người có công lao với trong khai thác, chinh phục và giữ gìn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc thì được tôn vinh là những “hùng binh” và được triều đình khen thưởng khi họ còn sống, được sắc phong và thờ tự sau khi họ qua đời. Dấu vết của nền văn hóa biển còn được phản ánh trong các bộ sách do các học giả biên soạn và được triều đình cho in ấn, phát hành và lưu truyền cho đời sau như các bộ sách: Phủ biên tạp lục (của Lê Quý Đôn), Lịch triều hiến chương loại chí (của Phan Huy Chú), Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục… (do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn) …

Một “quốc gia biển” chỉ thực sự hùng mạnh khi chủ quyền đối với các vùng biển đảo của Tổ quốc được bảo vệ vững chắc và chiến lược “phát triển kinh tế biển” phải gắn liền với “bảo tồn văn hóa biển”.

Hiện tại, ở nước ta chưa có một bảo tàng nào liên quan đến nghề đi biển hay truyền thống văn hóa biển của người Việt. Nhà nước cũng chưa có chính sách nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa biển Việt Nam. Theo tôi, không thể chỉ lưu giữ truyền thống văn hóa biển ở trong ký ức của cộng đồng các cư dân duyên hải, mà phải bảo tồn chúng trong các bảo tàng quy mô và hiện đại do nhà nước đầu tư và thông qua các chính sách phát triển văn hóa do nhà nước chủ trương. Vì thế, tôi đề nghị nhà nước đầu tư xây dựng ít nhất là ba bảo tàng về văn hóa biển và lịch sử hàng hải Việt Nam. Theo đó, cần có một bảo tàng về ngành hàng hải ở miền Bắc, một bảo tàng về ngành đóng thuyền ở miền Nam và một bảo tàng về văn hóa biển ở miền Trung. Những bảo tàng này không chỉ là nơi lưu dấu về lịch sử khai thác và chinh phục biển của người Việt, mà là môi trường giáo dục niềm tự hào về truyền thống văn hóa biển, về thành tựu khai thác, chinh phục và giữ gìn chủ quyền biển đảo của các thế hệ người Việt.

Ngoài ra, nhà nước phải giao cho các cơ quan hữu quan tổ chức tổng kiểm kê di sản văn hóa biển của người Việt (cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể) để định hướng bảo tồn và phát huy các di sản này sao cho hiệu quả. Cần phải ưu tiên nguồn vốn cho các công trình trùng tu, tôn tạo những di tích lịch sử – văn hóa liên quan đến quá trình khai thác, chinh phục, xác lập và giữ gìn chủ quyền biển đảo; xây dựng các chương trình quảng bá di sản văn hóa biển Việt Nam đến với cộng đồng trong nước và quốc tế.

Niềm tự hào về một truyền thống văn hóa biển, về thành tựu khai thác và chinh phục biển đã được tiền nhân khai mở và vun đắp, cần tiếp tục được nuôi dưỡng và trao truyền cho các thế hệ người Việt kế cận. Khi ấy thì ước vọng về một “vị thế đại dương” cho “quốc gia biển” Việt Nam mới có thể trở thành hiện thực.

BDN

RELATED ARTICLES

Tin mới