Bình luận trên SMCP, Patrick Mendis và Joey Wang cho rằng việc Sri Lanka rơi vào “bẫy nợ” là bài học đắt giá để các quốc gia khác cảnh giác hơn trước những đề nghị của Trung Quốc.
Ảnh minh họa. Nguồn: SCMP.
Tháng 10/2017, sau khi Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 kết thúc, “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới” đã chính thức trở thành “kim chỉ Nam” cho các hoạt động của Bắc Kinh.
Tại đại hội, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đề xuất sáng kiến “Vành đai và Con đường”, nằm trong kế hoạch hiện thực hóa “Giấc mộng Trung Hoa” của ông.
Sáng kiến này được công bố lần đầu tiên vào năm 2013, với kì vọng sẽ giúp Trung Quốc giải quyết “song đề Malacca” do nguyên chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đưa ra vào năm 2003. Eo biển Malacca là nơi có địa thế chiến lược đối với các hoạt động giao thương và năng lượng của Trung Quốc.
“Vành đai và Con đường”, hay Con đường Tơ lụa hiện đại, dự tính sẽ kết nối Trung Quốc và lục địa Á – Phi – Âu thông qua hệ thống cảng, đường xá, sân bay, đường ống và các cơ sở hạ tầng khác. Theo Viện nghiên cứu Paulson, hệ thống này bao gồm “65 quốc gia, 29% tổng GDP toàn cầu, và 60% dân số thế giới”.
Mục tiêu của ông Tập khi đưa ra sáng kiến này là nhằm thúc đẩy hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực và”hội nhập sâu rộng các thị trường”, nâng cao chuẩn hợp tác khu vực và đạt được “hợp tác kinh tế khu vực cởi mở, toàn diện và cân bằng”.
Vành đai và con đường – Cơ hội hay cạm bẫy?
Nhiều người tỏ ra nghi ngại, bởi những cơ hội lớn luôn đi kèm theo sự đánh đổi khổng lồ.
Không thể phủ nhận dự án này đem đến nhiều cơ hội cho các quốc gia dọc tuyến Vành đai và Con đường đang cần khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng, tuy nhiên chắc hẳn Trung Quốc có nhiều lí do để chấp nhận những khoản đầu tư đầy rủi ro này.
Một lí do là đa dạng hóa và gia tăng lợi nhuận từ các khoản dự trữ ngoại hối của Trung Quốc. Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng đáp ứng được mục tiêu này vì đem lại lợi nhuận cao hơn cho Trung Quốc.
Một lí do khác là Trung Quốc muốn giải quyết tình trạng quá tải và các doanh nghiệp “xác sống” đang ảnh hưởng đến kinh tế nước nhà, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất sắt thép, xây dựng và nguyên vật liệu.
Nhưng cũng giống như chiến lược ngoại giao tổng thể của Trung Quốc, đây không chỉ là vấn đề lợi ích, mà còn ảnh hưởng đến ổn định và phát triển khu vực. Cho rằng dự án này bị chi phối bởi yếu tố chính trị nhiều hơn là kinh tế, một số người kết luận rằng Trung Quốc có thể sẽ không đạt được lợi nhuận như kì vọng.
Ví dụ, cơ quan xếp hạng Fitch tỏ ra nghi ngờ bởi “các ngân hàng Trung Quốc không có kế hoạch phân bổ nguồn lực hiệu quả trong nước, đặc biệt đối với các dự án cơ sở hạ tầng”. Do đó, họ khó có thể thành công ở nước ngoài.
Trong khi đó, các chính trị gia sở tại và các quan chức tham nhũng có thể tranh thủ thúc đẩy những dự án “voi trắng”, lập kế hoạch kinh doanh phụ thuộc vào các chương trình nghị sự chính trị trọng truyền thống, làm gia tăng các rủi ro của các dự án phi lợi nhuận.
Fitch cũng ước tính rằng các quốc gia có khoản tín dụng 900 tỷ USD đã được gia hạn đều có nguy cơ vỡ nợ cao.
Ngoài ra, chế ước ngân sách mềm cũng là một trong số những rủi ro đối với dự án này. Ví dụ, Ngân hàng Phát triển Trung Quốc và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc chấp thuận cho vay chủ yếu chỉ dựa vào các yếu tố chính trị, mà bỏ qua các giới hạn rõ ràng về tính bền vững của khoản nợ.
Ông Xu Chenggang thuộc Trường Kinh doanh Cheung Kong ở Bắc Kinh cho rằng: “Thay vì giải quyết những vấn đề quá tải trong nước, họ lại đem những vấn đề này ra nước ngoài.”
Bài học xương máu của Sri Lanka
Những dự án này đầy rủi ro tài chính, và Sri Lanka chính là một ví dụ điển hình.
Trong suốt 9 năm Tổng thống Mahinda Rajapaksa cầm quyền, Sri Lanka bắt đầu rút khỏi các tổ chức viện trợ truyền thống như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) – và ngả về Trung Quốc. Sau này, Trung Quốc đã trở thành nhà đầu tư, chủ nợ và đối tác thương mại lớn thứ hai của Sri Lanka.
Tổng thống đương nhiệm Maithripala Sirisena, người bất ngờ đánh bại cựu Tổng thống Rajapaksa hồi năm 2015, đã hứa hẹn sẽ giải phóng Sri Lanka khỏi những điều kiện vay nợ ngặt nghèo của Trung Quốc.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, số phận của Sri Lanka đã bị định đoạt. Sau khi trở thành nước có thu nhập trung bình, Sri Lanka không còn đủ điều kiện cho các khoản vay ưu đãi nữa và phải tuân theo các điều khoản tín dụng thương mại như quy định của thị trường chung.
Sau khi đình chỉ các dự án như thành phố Cảng Colombo, chính phủ liên minh Sirisena-Wickremesinghe đã cố gắng đàm phán lại các điều khoản vay nợ, nhưng phía Trung Quốc dứt khoát bác bỏ đề nghị xóa nợ, và thay vào đó đề nghị đổi số nợ lấy cổ phần của các dự án.
Do không thể trả những khoản nợ chồng chất (hơn 95% doanh thu chính phủ được dùng để trả nợ), và gần như bị đẩy đến đường cùng, Sri Lanka buộc phải đồng ý đổi cổ phần để xóa nợ, trong đó Trung Quốc sẽ được điều hành một số dự án thuộc lãnh thổ của Sri Lanka trong vòng 99 năm, với khoản nợ trị giá 1,12 tỉ USD. Các dự án bao gồm cảng Hambantota (Trung Quốc nắm 70% cổ phần, và một lô đất chiến lược tại thành phố cảng Colombo.
Những tác động chiến lược sâu rộng hiện nay đã trở nên rõ ràng. Một số người quan sát gọi sáng kiến vành đai và con đường của ông Tập là “một con đường, một cái bẫy” nhằm tái thiết lập mô hình thiên tử – chư hầu thời Trung Quốc cổ đại.
Nhiều quốc gia trong khu vực cũng có nguy cơ sập bẫy nợ tương tự như Sri Lanka, ví dụ như Hành lang kinh tế Trung Quốc-Pakistan (CPEC), “Thành phố Rừng” của Malaysia, đập Sambor của Campuchia và các dự án khác, cũng như các quốc gia như Bangladesh, Nepal, Indonesia và Maldives, hay Ethiopia, Kenya và Venezuela, đều có thể chịu ảnh hưởng bởi các rủi ro kinh tế, chính trị và môi trường khi quá dễ dàng chấp nhận khoản tiền của Trung Quốc.
Các quốc gia bắt đầu “thức tỉnh”?
Gần đây, Pakistan đã rút khỏi dự án đập Diamer-Bhasha, một dự án lớn của CPEC thuộc khuôn khổ Vành đai và Con đường. Đồng thời, ông Muzammil Hussain, Chủ tịch Cơ quan Phát triển Nguồn nước và Năng lượng của Pakistan tuyên bố: “Điều kiện để Trung Quốc đầu tư xây dựng đập Diamer-Bhasha là không thể thực hiện được và hoàn toàn đi ngược lại với những lợi ích của chúng tôi”.
Tiếp bước Pakistan, Nepal cũng hủy bỏ dự án nhà máy thủy điện Budhi Gandaki trị giá 2,5 tỉ USD của Tập đoàn Gezhouba của Trung Quốc, do những điểm “bất thường” trong quá trình đấu thầu. Dự án này cũng nằm trong khuôn khổ kế hoạch Vành đai và Con đường.
Những động thái này cho thấy một số các quốc gia đã “thức tỉnh” và nhận ra thực tế rằng những điều kiện hợp tác với Trung Quốc cần được xem xét kĩ càng hơn, nếu họ không muốn rơi vào tình trạng tương tự như Sri Lanka.
Những điều kiện vay nợ của Trung Quốc có vẻ hấp dẫn hơn so với các tổ chức đa phương như IMF, WB hay ADB, bởi Trung Quốc dường như không can thiệp nội bộ các nước, và sử dụng cách tiếp cận không ràng buộc. Nhưng sự thật là có rất nhiều thỏa thuận không hề được viết ra trên giấy trắng mực đen, nhưng lại là những điều khoản ràng buộc. Và Sri Lanka đã phải chịu giá đắt để “lĩnh hội” được bài học xương máu này.
Về phần mình, Trung Quốc lại có cái nhìn khác. Ông Liu Xiaoxu thuộc Học viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cho rằng:
“Trung Quốc không hề có ảo tưởng chiến lược đối với Sri Lanka, bởi nếu so sánh về mặt địa lý thì nước này gần Ấn Độ hơn Trung Quốc. Và Trung Quốc cũng không có kế hoạch hay chủ ý lừa Sri Lanka vào bẫy nợ. Trung Quốc cũng không tự nhiên vô cớ đầu tư vào một quốc gia cách xa vạn dặm như vậy.”
Nhưng rõ ràng, những điều này cho thấy có “bàn tay vô hình” đang tác động để tạo ra một trật tự thế giới mới, tương tự hệ thống chư hầu cũ của Trung Quốc.