Thursday, November 28, 2024
Trang chủBiển nóngViệt Nam có cải tạo Đá Lát?

Việt Nam có cải tạo Đá Lát?

Ngày 13/06/2018 vừa qua, Tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế CSIS, trụ sở tại Washington đăng tải một số ảnh chụp vệ tinh và cho rằng Việt Nam đang cải tạo một số khu vực tại Đá Lát (Ladd Reef), một rạn san hô vòng thuộc cụm đảo Trường Sa, phía Tây quần đảo Trường Sa.Đảo Đá Lát nằm ở cực Tây các đảo, bãi đá ở Trường Sa, phía Tây Nam Đá Lát là một số bãi ngầm mà Trung Quốc đang chiếm đóng phi pháp của Việt Nam. Đá Lát, thường ngập dưới nước và hiện có một hải đăng, một trạm gác nhỏ trên đảo.

Đá Lát, hình ảnh vệ tinh do AMTI cung cấp

Theo AMTI, ảnh vệ tinh từ tháng 3 – 6/2018, cho thấy một con kênh đào mới được nạo vét, nằm ở rìa phía Nam của rạn san hô, kênh này không hề có trên các ảnh cũ hơn trước đây; Việt Nam cũng đang bồi đắp một ít ở phía Bắc của Đá Lát bằng trầm tích nạo vét từ con kênh và xây dựng một cấu trúc hình lục giác, rộng khoảng 100 feet, tương tự như các công trình mở rộng mà Việt Nam đã xây ở 4 thực thể khác ở quần đảo Trường Sa trong những năm qua là Đá Cô Lin (Collins), Len Đao (Lansdowne), Tiên Nữ (Tennent), và Đá Lớn (Discovery Great Reef). Việc mở rộng cơ sở tại Đá Lát, bao gồm việc đào một con kênh mới cho phép tiếp tế dễ dàng và tàu lớn đi vào bên trong đầm phá.

AMTI nhận định đây là kiểu nạo vét thường được Việt Nam áp dụng ở một số đảo đá khác và hoạt động củng cố Đá Lát cho thấy quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam, bất chấp các hành vi đe dọa của Trung Quốc.

Trên thực tế, những hoạt động trên của Việt Nam chỉ đơn thuần nhằm cải thiện môi trường sống của quân nhân đóng trên đảo và tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân vào tránh bão, áp thấp nhiệt đới khi cần thiết, cụ thể:

Thứ nhất, khu vực đảo Đá Lát thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hoạt động của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hợp pháp và được luật pháp quốc tế bảo vệ. Ngoài ra, Việt Nam là một nước gương mẫu, luôn thực thi nghiêm túc các quy định luật pháp quốc tế về biển đảo, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982.

Thứ hai, hành động của Việt Nam mang tính tích cực, chỉ nhằm cải thiện đời sống, an toàn tính mạng cho quân nhân đóng trên đảo Đá Lát (khi biển động, sóng biển đánh vào sát nơi binh sỹ đang đóng quân và chỗ sinh hoạt của binh sỹ rất eo hẹp) và là nơi tránh bão, áp thấp nhiệt đới cho ngư đân Việt Nam cũng như ngư dân các nước đang đánh cá hợp pháp trên Biển Đông. Hành động này góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Ðông và khu vực.

Thứ ba, Việt Nam chỉ sử dụng tàu nhỏ, hút trầm tích san hô đã chết để khơi thông luồng, rạch, tạo điều kiện thuận lợi cho tàu tiếp tế và tàu cá của ngư dân ra vào đầm phá thuận tiện, an toàn. Greg Poling, chuyên gia về Biển Đông tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington nhận định hoạt động ở Đá Lát có thể không phải để xây đắp mà chỉ để giúp tàu vận tải và tàu cá dễ tiếp cận đảo đá này.

Thứ tư, việc náo hút của Việt Nam được tiến hành một cách từ từ, không sử dụng các công cụ chuyên dụng như máy cắt, máy dung, máy phá rạn san hô (cách mà Trung Quốc tiến hành ở 7 đảo nhân tạo ở Trường Sa), những hoạt động trên không hề đe dọa hay phá hủy môi trường sinh thái ở Biển Đông.

Thứ năm, tất cả những hoạt động nâng cấp một số nhà ở, hay xây kè chắn trên đảo Đá Lát của Việt Nam là nhằm chắn sóng biển, không để cát và rác rơi xuống biển, ảnh hưởng môi trường xung quanh. Ngoài ra, nguyên vật liệu xây dựng (từng viên gạch, hòn sỏi) đều được Việt Nam vận chuyển từ trong nước ra.

Ngoài ra, hoạt động của Việt Nam phần nào đó góp phần nâng cao năng lực phòng thủ chống lại các mối đe dọa, điều này là quyền lợi hợp pháp, chính đáng của Việt Nam cũng như các nước khác ven Biển Đông. Việc này giống như Indonesia tăng cường phòng thủ Natuna, Malaysia tăng cường phòng thủ ở Sabah, Sarawak và Biển Đông và Philippines cho phép Mỹ sử dụng 5 căn cứ quân sự trên lãnh thổ.

Hoạt động cải thiện nơi sinh sống và tránh bão của Việt Nam trên đảo Đá Lát khác so với hoạt động cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo và tiến hành quân sự hóa của Trung Quốc tại 7 đá, bãi cạn chiếm đóng phi pháp từ Việt Nam.

Theo AMTI, trong nhiều năm qua, Việt Nam mới chỉ bồi đắp thêm khoảng 120 mẫu Anh trên 10 đảo nhỏ, trong khi đó Trung Quốc đã bồi đắp hơn 3.200 mẫu Anh trên 7 thực thể ở quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, Bắc Kinh còn xây dựng các cảng, hải đăng, đường băng, bệnh viện, sân chơi thể thảo, lắp đặt radar, triển khai máy bay chiến đấu, tên lửa, pháo… ra 7 đảo nhân tạo. Điều này cũng được Giáo sư Carl Thayer công nhận khi cho rằng, “hoạt động xây cất của Việt Nam không chỉ nhỏ hơn nhiều so với Trung Quốc mà còn ít phá hoại môi trường (không nạo vét quy mô lớn các rạn san hô) và các hoạt động bồi đắp đảo của Việt Nam chỉ bằng 4% tổng diện tích Trung Quốc “cải tạo đảo”.

Trong quá trình cải tạo phi pháp, Trung Quốc đã sử dụng các máy hút bùn công suất lớn (họ thường dùng những tàu có trọng tải lớn, có công suất hút lên đến 6.000 m3 đất, cát mỗi giờ từ độ sâu 35 m), nạo vét các rặng san hô xung quanh để tạo thành các đảo nhân tạo. Sau đó, Trung Quốc đã cho xây dựng nhiều công trình quân sự và dân sự trên các đảo nhân tạo, biến khu vực này thành những căn cứ quân sự kiên cố của Bắc Kinh. Hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc đã phá hủy gần như toàn bộ môi trường sinh thái xung quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Tính đến thời điểm hiện nay, Trung Quốc đã biến 7 bãi đá Chữ Thập (Fiery Cross), Xu Bi (Subi), Vành Khăn (Mischief), Gạc Ma (Johnson South), Châu Viên (Cuarteron), Ga Ven (Gaven) và Tư Nghĩa (Hughes) thành các đảo nhân tạo với chi phí hàng trăm tỷ USD. Đáng chú ý, tổng số diện tích 15 đảo tự nhiên thuộc quần đảo Trường Sa là 1.828 km² trong khi đó tổng diện tích các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây là 12 km² (khoảng 1,300 hecta). Tính riêng đá Chữ Thập, Trung Quốc đã cải tạo phi pháp lên đến 2.74 km², Bắc Kinh cũng đã xây trên các đảo nhân tạo này một bệnh viện, 3 đường băng dài 3.000m, 5 ngọn hải đăng và nhiều căn cứ quân sự khác.

Tóm lại, hoạt động của Việt Nam tại đảo Đá Lát không thể gọi là cải tạo đảo, nó chỉ mang tính chất cải thiện môi trường sống của binh lính đồn trú trên đảo và khơi thông luồng, lạch tạo điều kiện thuận lợi cho tàu thuyền của ngư dân vào tránh bão khi cần thiết. Những hoạt động như vậy hoàn toàn phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS.

RELATED ARTICLES

Tin mới