Tháng 11/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump lần đầu tiên đề cập Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Ý nghĩa của khía cạnh “tự do” trong chiến lược là chỉ các nước trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể tự theo đuổi những con đường riêng mà không bị ép buộc. Ngoài ra, Mỹ mong muốn các nước Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được hưởng quyền tự do hơn, bao gồm tự do về quản lý, quyền hạn cơ bản, minh bạch và chống tham nhũng. Ý nghĩa của khía cạnh “rộng mở” là chỉ việc Mỹ muốn khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể mở rộng hơn nữa, trước hết là đường biển và đường không, sau là về hậu cần – cơ sở hạ tầng nhằm khuyến khích các nước hội nhập khu vực tốt hơn và phát triển kinh tế mạnh hơn.
Vành đai ảnh hưởng của chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương. Ảnh: AP
Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương chịu chi phối, tác động của một số nước
Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và Mỹ là các cường quốc về kinh tế, quân sự đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Quan điểm của chính quyền bốn nước về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mặc dù rất gần với nhau nhưng cũng không hoàn toàn trùng khớp. Trong khi Mỹ cho rằng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là khu vực trải từ bờ tây nước này tới bờ Tây Ấn Độ thì tầm nhìn của Nhật Bản lại tham vọng hơn khi mở rộng tới tận bờ Đông của châu Phi. Tuy chưa có định nghĩa chính thức của mình nhưng Ấn Độ có quan điểm tương tự Nhật Bản; còn cách nhìn của Australia về cơ bản giống Mỹ. (1) Ấn Độ đã vượt Trung Quốc để trở thành nền kinh tế chủ đạo có mức độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Ấn Độ cũng được dự đoán sẽ vượt Trung Quốc, trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới vào năm 2024 và vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào năm 2030. Về quân sự, Ấn Độ là một trong chín nước sở hữu vũ khí hạt nhân và có lực lượng quân đội đông thứ hai thế giới. Không như Trung Quốc, sự trỗi dậy của Ấn Độ lại được các nước Phương Tây đón nhận một cách tích cực. Mặc dù là nước có diện tích lớn nhất ở Nam Á, Ấn Độ khá biệt lập trong giao thương đường bộ do vùng biên giới phía bắc địa hình hiểm trở. Chính vì vậy không quá bất ngờ khi 95% khối lượng, 68% giá trị thương mại của Ấn Độ đến từ Ấn Độ Dương. Với khối ASEAN, thương mại hai chiều Ấn Độ – ASEAN đã tăng từ 12 tỉ USD năm 2001 lên 70 tỉ năm 2017. ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn thứ tư của Ấn Độ. (2) Nhật Bản là nước đầu tư mạnh mẽ và toàn diện nhất cho chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương bao phủ hai châu lục (Châu Á & Châu Phi) và hai đại dương (Ấn Độ Dương & Thái Bình Dương). Hai trụ cột cho “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và cởi mở” của Nhật Bản là duy trì an ninh, tự do hàng hải và cải thiện sự gắn kết khu vực. Trong những năm gần đây, Nhật Bản tích cực hợp tác quân sự và kinh tế với Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Malaysia và Việt Nam. (3) Australia là nước ủng hộ và phổ biến khái niệm Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương từ sớm. Australia cũng là nước có bờ biển giáp cả Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nên Australia có những lợi ích và tiềm năng rõ ràng với khu vực này. Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất của Australia vào chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mới chỉ dừng lại ở hợp tác quân sự như các cuộc tập trận chung và các chiến dịch “Tự do hàng hải” tiến hành cùng các đồng minh. (4) Mỹ sẽ gần như không thể cạnh tranh Trung Quốc về đầu tư cơ sở hạ tầng ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, tiềm lực quân sự của Mỹ trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương vẫn có ưu thế lấn át. Việc đầu tư mạnh mẽ vào quốc phòng của nước này có lẽ sẽ tạo điều kiện cho mở rộng hợp tác quân sự và hỗ trợ nhiều hơn cho các đồng minh và đối tác trong khu vực. (5) ASEAN là một trong những khu vực năng động phát triển năng động nhất thế giới, tốc độ tăng trưởng luôn ở mức cao. Nhiều nhà quan sát cho rằng trọng tâm động lực của kinh tế thế giới không chỉ đang dịch chuyển từ Tây sang Đông (Mỹ & châu Âu sang châu Á) mà còn từ Bắc xuống Nam (Đông Bắc Á xuống Đông Nam Á). Ngoài ra, ASEAN còn nắm giữ vị trí địa chính trị quan trọng hàng đầu. Eo biển Malacca kết nối Ấn Độ Dương vào Biển Đông là cửa ngõ để hàng hoá và năng lượng từ Trung Đông, Ấn Độ đi tới Đông Bắc Á và Thái Bình Dương.
Khu vực Biển Đông có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”
Về mặt địa chiến lược, Biển Đông không chỉ là một vùng biển quan trọng, nó còn nằm ở vị trí trung tâm của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và nó có tuyến đường hàng hải ngắn nhất kết nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Tiến sỹ Euan Graham, Giám đốc Chương trình an ninh quốc tế, Viện nghiên cứu Lowy, Australia nhận định, nếu nhìn vào các nước tiếp giáp Biển Đông thì Biển Đông là nguồn cung cấp nhiên liệu và thực phẩm dồi dào cho các nước ven biển. Tuy nhiên, giá trị địa chiến lược mới là vấn đề mấu chốt. Vai trò của Biển Đông rất là quan trọng bởi vì đây là vấn đề mà Trung Quốc và các nước Đông Nam Á không thống nhất. Nếu Trung Quốc ép buộc các nước Đông Nam Á phải công nhận rằng Trung Quốc có yêu sách ở vùng biển này thì sẽ rất khó khăn cho các nước sau này trong việc duy trì khu vực “tự do và rộng mở” hay việc duy trì trật tự của luật pháp. Vì vậy Biển Đông không chỉ quan trọng đối với các nước tiếp giáp vùng biển này mà đây là nơi mà có thể kiểm chứng cách hành xử của Trung Quốc sẽ được khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương mở rộng đánh giá, được chấp nhận hay không chấp nhận.
Trong khía cạnh khác, Mỹ coi là khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, bao gồm cả khu vực Biển Đông có địa chiến lược trọng yếu, tác động trực tiếp đến an ninh quốc gia và vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ. Vì vậy, việc thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là cách để Mỹ bảo vệ lợi ích của công dân và thị trường Mỹ, bảo đảm sự tự do và an ninh giao thông đường biển, duy trì thế cân bằng lực lượng, thúc đẩy các mặt dân chủ và nhân quyền theo tiêu chuẩn của Mỹ tại khu vực. Ngoài ra, Mỹ cho rằng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, đặc biệt là việc Bắc Kinh nỗ lực xây dựng và quân sự hóa các tiền đồn ở Biển Đông đang đe dọa dòng chảy thương mại tự do, đe dọa thu hẹp chủ quyền của các quốc gia, làm suy giảm sự ổn định khu vực và việc đẩy mạnh sáng kiến “Vành đai và Con đường” của nước này đang thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ tại khu vực.
Không những vậy, khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương chưa có một cơ chế đa phương về an ninh tập thể mà chủ yếu dựa trên các hiệp định và thỏa thuận song phương, như: Hiệp ước An ninh Nhật – Mỹ, Hiệp ước về phòng thủ chung giữa Mỹ và Hàn Quốc… nên Mỹ thấy cần phải tập hợp lực lượng, thắt chặt mối quan hệ với các đồng minh tại khu vực, trong đó khuyến khích vai trò của Ấn Độ, để bảo vệ lợi ích, duy trì ảnh hưởng và vị trí siêu cường của mình tại khu vực.
Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 17, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modicho rằng quan điểm của Ấn Độ về chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là “khu vực tự nhiên” với Đông Nam Á ở trung tâm và “tất cả các nước đều có quyền tiếp cận bình đẳng theo luật pháp quốc tế trong việc sử dụng các không gian chung trên biển, trên không. Những điều đó sẽ đưa lại quyền tự do hàng hải, thương mại không bị cản trở và giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế”. Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đã tái khẳng định cam kết của Mỹ đối với vai trò trung tâm của ASEAN, ủng hộ quan hệ đối tác với ASEAN và các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, đồng thời tái đảm bảo với các nước Đông Nam Á rằng chiến lược này ở mức độ nào đó, khi được đúc kết thành cơ chế hợp tác “Đối thoại Tứ giác” (Ấn Độ – Mỹ – Australia – Nhật Bản) không có nghĩa là loại trừ hoặc giảm bớt vai trò của Đông Nam Á; nhấn mạnh sự cần thiết của việc đoàn kết ASEAN, cho rằng “ngày càng có nhiều nước thành viên ASEAN thể hiện quan điểm riêng và cách tốt hơn là các nước này nên thúc đẩy sự tự do trong khu vực trước các hành động cưỡng ép và tôn trọng luật pháp quốc tế”; khẳng định “chiến lược của Mỹ thừa nhận không một nước nào có thể hoặc sẽ thống trị khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Đây là một nguyên tắc mà ASEAN nên đưa vào vấn đề Biển Đông, ví dụ như không một nước nào có thể ra luật lệ với các vùng biển và thống trị không gian địa chiến lược của Biển Đông”.
Dư luận cho rằng chiến lược trên sẽ góp phần thúc đẩy phát triển của khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Theo các chuyên gia, chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ sẽ khiến khu vực trở thành một sân chơi mới, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, tự do và cởi mở, hoàn toàn không bị lệ thuộc vào sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc. Mặt khác, chiến lược này tạo thêm động lực, nguồn lực tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh của các nước trong khu vực, đảm bảo cho họ có cơ hội tranh thủ được những yếu tố phù hợp, như: vốn, công nghệ, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, đối phó với các thách thức an ninh chung. Ngoài ra, việc điều chỉnh chiến lược của Mỹ làm nảy sinh cạnh tranh mạnh mẽ trong quan hệ giữa các nước lớn, tạo nhiều cơ hội để các nước nhỏ trong khu vực tranh thủ hợp tác xây dựng, nâng cao tiềm lực khoa học – công nghệ, phục vụ hiện đại hóa quân đội của mình.
Tuy nhiên, việc đồng thời có cả sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc và chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ có thể khiến khu vực rơi vào tình trạng căng thẳng, cạnh tranh, nhất là tại những điểm nóng, như: Biển Đông, biển Hoa Đông, vùng lãnh thổ Đài Loan và bán đảo Triều Tiên. Thêm vào đó, sự cọ xát giữa sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc và chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ sẽ tiếp tục làm cho cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp hơn.
Thời gian tới, Mỹ và các nước sẽ gặp nhiều khó khăn khi thực hiện chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. (1) Trung Quốc có khả năng sẽ tăng cường căng thẳng địa chính trị, đặc biệt nếu Bắc Kinh nhận thấy Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương như một sự bao vây và ngăn chặn mang tính khiêu khích. (2) Việc Mỹ mở rộng sự hiện diện quân sự tại các khu vực rộng lớn có nguy cơ dẫn tới leo thang căng thẳng. (3) Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” là một thách thức đối với vai trò trung tâm của ASEAN. Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và Mỹ sẽ nhấn mạnh rằng ASEAN vẫn đi đầu và đóng vai trò trung tâm trong các hành động và hoạt động xây dựng kiến trúc khu vực. Tuy nhiên, các nước trên có khả năng bỏ qua ASEAN bằng cách thực hiện hành động cấp khu vực theo những phương cách không yêu cầu ASEAN đóng vai trò chủ đạo tại thời điểm nhóm 10 thành viên Đông Nam Á không tìm được giải pháp cho các đảo nhân tạo ở Biển Đông, hay vấn đề nguồn nước sông Mê Công.