Monday, December 23, 2024
Trang chủBiển nóngMột số nét về chính sách Biển Đông của TQ sau Phán...

Một số nét về chính sách Biển Đông của TQ sau Phán quyết của Tòa trọng tài

Sau khi Tòa Trọng tài (12/7/2016) ra phán quyết cuối cùng về vụ Philippines kiện Trung Quốc liên quan vấn đề Biển Đông. Bắc Kinh đã có một số điều chỉnh về chủ trương, chính sách và cách tiếp cận trong vấn đề Biển Đông, vẫn tiếp tục mở rộng các điểm chiếm đóng, hiện đại hóa hải quân, tiến hành quân sự hóa các thực thể chiếm đóng phi pháp ở Biển Đông và cố tình duy trì mập mờ trong yêu sách để tạo ra cơ sở cho các hoạt động mở rộng phi pháp ở khu vực trong thời gian tới.

Trung Quốc tập trung củng cố, quân sự hóa các đảo chiếm đóng phi pháp ở Biển Đông

Sau phán quyết, Trung Quốc nhìn chung giảm mức độ quyết đoán ở Biển Đông nhưng tiếp tục củng cố, quân sự hóa các đảo chiếm đóng phi pháp ở Biển Đông, cụ thể: Tiếp tục hoàn thiện các công trình xây dựng phi pháp tại 7 đảo đá nhân tạo thuộc quần đảo Trường Sa (của Việt Nam); triển khai nhiều loại hình khí tài quân sự ra các đảo ở Biển Đông như tên lửa hành trình, tên lửa đất đối không, máy bay chiến đấu J-11, pháo cao xạ, radar, vũ khí điện từ, tàu chiến; xây dựng và đưa vào sử dụng các công trình phục vụ mục đích dân dụng ở Biển Đông; tiếp tục ban hành phi pháp các lệnh “cấm đánh bắt cá hàng năm” trong khu vực, công bố Luật An toàn Hàng hải công bố ngày 14/2/2017 được áp dụng với “vùng biển thuộc quyền tài phán của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” bên cạnh “nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa”; Tòa án Tối cao của Trung Quốc cũng đưa ra các quyết định về tăng cường thẩm quyền của các Tòa án Trung Quốc trong việc xét xử các vụ vi phạm “vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc”; tổ chức nhiều hoạt động tuần tra, tập trận phi pháp ở Biển Đông; xây dựng nhiều công trình phục vụ mục đích quân sự tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa…

Tuy nhiên, Trung Quốc cũng có những dấu hiệu nhằm giảm căng thẳng ở Biển Đông. Thông qua “Tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc về chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông” (12/7/2016) và “Sách trắng của Quốc vụ viện về lập trường giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines ở Biển Đông” (13/7/2016), trong đó Bắc Kinh tái khẳng định chủ trương giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở của luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS.

Trung Quốc cũng đưa ra một số quy định nhằm “kiểm soát” chặt hơn đối với hoạt động khai thác dầu khí và ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá ở Biển Đông, cụ thể: Trung Quốc đã thông qua “Kế hoạch Ngư nghiệp năm năm lần thứ 13 (1/2017), trong đó có quy định giảm 1/6 sản lượng đánh bắt (từ 12 triệu tấn hiện nay xuống còn 10 triệu tấn trong vòng 5 năm tới); Chính quyền tỉnh Hải Nam đưa ra một số quy định nhằm kiểm soát việc đánh sò tai tượng ở Biển Đông; Trung Quốc dừng triển khai các hoạt động thăm dò dầu khí mới ở những vùng biển của các nước khác, hoặc là vùng được coi là tranh chấp. Ngoài ra, Trung Quốc cũng chủ động kiểm soát phản ứng của dư luận nội bộ, ngăn chặn các thảo luận và hoạt động kích động chủ nghĩa dân tộc; đẩy mạnh việc kiểm soát và ngăn chặn các hoạt động kích động biểu tình trong nước và đăng tải các bài viết có nội dung kích động liên quan vấn đề Biển Đồng.

Trung Quốc tiếp tục thực hiện chính sách “mập mờ” về yêu sách chủ quyền ở Biển Đông

Kể từ khi Philippines chính thực đề đơn khởi kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài, Bắc Kinh liên tục đưa ra các tuyên bố thể hiện thái độ thiếu hợp tác. Sau khi Tòa Trọng tài ra phán quyết, Trung Quốc liên tục tuyên bố “không chấp nhận, không tham gia, không thực thi” phán quyết của Tòa, cho rằng Tòa không có thẩm quyền xét xử vụ kiện; đồng thời Trung Quốc công bố “Tuyên bố của Chính phủ Trung Quốc về chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông” và “Sách trắng của Quốc vụ viện về lập trường giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines” thể hiện mập mờ về yêu sách “chủ quyền” ở Biển Đông, nhằm tạo điều kiện thuận lợi phục vụ các âm mưu độc chiếm Biển Đông sau này. Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên Trung Quốc trình bày một cách thống nhất và toàn diện các yêu sách biển đảo ở Biển Đông, khi cho rằng Trung Quốc có “chủ quyền đối với các đảo khác nhau ở Biển Đông, gồm Hoàng Sa, Trường Sa, Đông Sa và Trung Sa”; yêu sách nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp “dựa trên” các đảo; yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa “dựa trên” các đảo; yêu sách “quyền lịch sử”.

Tuy nhiên, Trung Quốc đang sử dụng câu chữ để đánh lừa dư luận và tránh sự chỉ trích, lên án của cộng đồng quốc tế, cụ thể: (1) Trung Quốc sử dụng “các đảo khác nhau ở Biển Đông” để né tránh lập trường công khai về quy chế pháp lý của nhóm hoặc từng thực thể ở Trường Sa; (2) Trung Quốc không gắn “đường chín đoạn” với yêu sách vùng biển và “quyền lịch sử”, song không làm rõ bản chất, nội dung và phạm vi của các quyền này; (3) Trung Quốc cụ thể hóa nguyên tắc “đất thống trị biển”, lấy các đảo ở Biển Đông là cơ sở chính để yêu sách nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa căn cứ từ các đảo ở Biển Đông. Việc tách biệt giữa yêu sách “nội thủy, lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải” với yêu sách “vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa” quy thuộc cho “các đảo ở Biển Đông” để ngỏ khả năng diễn giải rằng thực thể có thể có quy chế pháp lý khác nhau.

Trung Quốc điều chỉnh chính sách đối ngoại mang tính “hòa dịu” hơn với các nước liên quan tranh chấp ở Biển Đông

Sau phán quyết, Trung Quốc chủ động triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền, ngoại giao để hạn chế tác động của phán quyết, đồng thời ngăn chặn sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài; tiếp tục sử dụng chiến thuật “chia để trị”, vận động các nước thân Trung Quốc trong khi hăm dọa các nước liên quan đến tranh chấp để ngăn chặn việc hình thành mặt trận chung chống lại Trung Quốc, trong đó có một số điểm nổi bật như: (1) Tăng cường đối thoại và can dự với các nước liên quan trực tiếp đến tranh chấp Biển Đông; tiến hành tham vấn song phương và hợp tác chung với Philippines ở Biển Đông; sử dụng “ngoại giao tiền tệ” để mua chuộc, lôi kéo các nước liên quan tranh chấp ở Biển Đông; tăng cường các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc tới các nước láng giềng, các nước hay can thiệp vào vấn đề Biển Đông; (2) Vận động các nước ủng hộ lập trường của Trung Quốc, ngăn cản các nước khác công khai ủng hộ phán quyết và phê phán của Trung Quốc. (3) Răn đe các nước liên quan, chặn các diễn đàn đa phương đề cập đến vấn đề Biển Đông, đặc biệt là tại các diễn đàn đa phương do Trung Quốc hậu thuẫn hoặc chịu tác động, ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc. (4) Trung Quốc tích cực thúc đẩy đàm phán và đã nhất trí thông qua Khung COC với các nước ASEAN, từ đó tạo dựng “uy tín và niềm tin” đối với các nước ASEAN về nỗ lực và quyết tâm của Trung Quốc trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. (5) Trung Quốc chủ động đề xuất cơ chế hợp tác giữa các bên tranh chấp trực tiếp ở Biển Đông. Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân (3/2017) kêu gọi xây dựng cơ chế hợp tác giữa các nước ven biển ở Biển Đông, song song với các cơ chế hiện có, nhằm mục tiêu tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác và chia sẻ lợi ích trong các lĩnh vực như phòng chống và hạn chế thiên tai, tìm kiếm cứu nạn trên biển, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học, nghiên cứu khoa học và an toàn hàng hải. Cơ chế này không liên quan đến giải quyết tranh chấp, mà chủ yếu thúc đẩy hợp tác chuyên ngành.

Việc Trung Quốc có một số điều chỉnh chính sách liên quan vấn đề Biển Đông là chịu tác động, chi phối bởi nhiều yếu tố

Đầu tiên, yếu tố nội bộ chính trị Trung Quốc: Chủ tịch Tập Cận Bình đã củng cố vai trò lãnh đạo, trở thành lãnh đạo hạt nhân của toàn Đảng và toàn quốc. Sau khi được bầu lại vai trò Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc nhiệm kỳ hai, ông Tập Cận Bình tìm cách vận động việc xóa bỏ quy định về hai nhiệm kỳ đối với chức vụ Chủ tịch nước mở đường cho việc nắm quyền trọn đời. Với việc vị thế trong nền chính trị trong nước được củng cố, ông Tập Cận Bình không cần sử dụng vấn đề Biển Đông để kích động tinh thần dân tộc. Bên cạnh đó, dưới sự tác động của sự sụt giảm giá năng lượng toàn cầu, các tập đoàn dầu khí của Trung Quốc không có động lực để thúc đẩy các dự án thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi tốn kém về chi phí và rủi ro địa chính trị cao. Ngoài ra, những điều chỉnh của Trung Quốc ở Biển Đông nằm trong thay đổi lớn hơn trong ưu tiên của chính sách đối ngoại của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là thúc đẩy các đại dự án Vành đai và Con đường (BRI) để tạo vị thế chủ chốt của Trung Quốc trong quan hệ quốc tế ở khu vực.

Thứ hai, phán quyết của Tòa Trọng tài và phản ứng của quốc tế có tác dụng kiềm chế hành vi của Trung Quốc; đồng thời nếu Trung Quốc tiếp tục có hành vi đi ngược lại luật pháp quốc tế sẽ gây ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín của Bắc Kinh, ngoài ra, các nước liên quan tranh chấp có thể liên minh, liên kết với các nước khác thành lập một mặt trận chống lại Trung Quốc.

Thứ ba, chính sách của các nước cũng có tác động nhất định đến hành vi của Trung Quốc. Việc Tổng thống Philippines Duterte thay đổi chính sách theo hướng tạm thời gác lại phán quyết và chủ động “dàn hòa” với Trung Quốc đã buộc Bắc Kinh phải điều chỉnh hành vi theo hướng ôn hòa hơn.

RELATED ARTICLES

Tin mới