Trong khoảng 5 năm trở lại đây, Trung Quốc đã triển khai nhiều loại hình giàn khoan dầu ở Biển Đông. Trong số đó, có nhiều giàn khoan được chính phủ Trung Quốc hậu thuẫn, hạ đặt phi pháp trong vùng biển của Việt Nam. Hành động trên của Bắc Kinh ngoài mục đích thăm dò, đánh giá trữ lượng dầu khí còn nhằm mục đích khẳng định “chủ quyền” của Trung Quốc ở Biển Đông.
Giàn khoan Dầu khí Hải dương 981 của Trung Quốc
Giàn khoan Dầu khí Hải dương 981: Là giàn khoan biển sâu kích cỡ lớn đầu tiên do Trung Quốc sản xuất và do Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) sở hữu. HD-981 dài 114 m, rộng 90 m, cao 137,8 m và nặng 31.000 tấn; diện tích boong của giàn khoan có kích thước bằng một sân bóng đá chuẩn. Giàn khoan này có khả năng khoan sâu tối đa 12.000 m. Theo Tân Hoa xã, giàn khoan chính thức được Trung Quốc đưa vào hoạt động vào ngày 9/5/2012, tiến hành khoan trên biển lần đầu tiên tại một khu vực trên Biển Đông, cách Hồng Công 320 km về phía Đông Nam, ở độ sâu 1.500 m. Trung Quốc đã đầu tư 6 tỉ nhân dân tệ (952 triệu đô la Mỹ) cho HD-981. Tập đoàn đóng tàu quốc gia Trung Quốc đã mất trên ba năm mới hoàn tất giàn khoan HD-981
Ngày 2 tháng 5 năm 2014, giàn khoan được Trung Quốc đưa đến tọa độ 15°29′58″B 111°12′1″Đ, cách đảo Tri Tôn (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) 17 hải lý (khoảng 30 km) về phía Nam, cách đảo Hải Nam 180 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 120 hải lý về phía Đông.
Giàn khoan Lam Kình 1: Đây là sản phẩm của tập đoàn công trình biển CIMC Raffles ở tỉnh Sơn Đông. Lam Kình 1 là giàn khoan biển sâu loại nửa nổi nửa chìm lớn nhất thế giới với trọng lượng 42.000 tấn, chiều cao từ đáy đến đỉnh là 118 m, tương đương tòa nhà 37 tầng. Giàn khoan có diện tích mặt sàn tương đương một sân bóng với hệ thống mũi khoan tinh vi. Độ sâu tác nghiệp tối đa là 3.653 m, độ sâu mũi khoan có thể đạt đến 15.240 m. Theo hãng sản xuất CIMC Raffles, Lam Kình 1 có thể hoạt động ở mọi vùng biển sâu trên thế giới. Để thực hiện tác nghiệp, giàn khoan phải mang theo 370 ống thép lớn, mỗi ống dài hàng chục mét, nhiều hơn 30% so với giàn khoan thế hệ 6. Tổng chiều dài cáp điện lên tới 1.200 km. CCTV cho biết giàn khoan Lam Kình 1 có giá thành 700 triệu USD, hiệu suất tăng ít nhất 30% và tiết kiệm 10% nhiên liệu tiêu hao so với thế hệ giàn khoan trước. Theo South China Morning Post, giàn khoan Lam Kình 1 “được thiết kế riêng để hoạt động trên Biển Đông, nơi có những mỏ dầu chưa khai thác ở độ sâu 3.000 m hoặc hơn dưới mực nước biển”. Giàn khoan đã được bàn giao cho Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc.
Giàn khoan Dầu khí Hải dương 982: Đây là giàn khoan nửa nổi nửa chìm thế hệ thứ 6, được Trung Quốc mệnh danh là “đảo nhân tạo trên biển”. Giàn khoan Hải Dương 982 dài 104,5 m, rộng 70,5 m, khoan sâu tối đa 9.144 m, có thể hoạt động thăm dò dầu khí trong vùng biển sâu 1.500 m. Khu boong làm việc rộng 1.524 m2, sức chứa 180 người, tải trọng 5.000 tấn, trang bị hệ thống định vị động lực tự động thế hệ 3 (DP3). Hệ thống này được điều khiển bằng máy tính, tính toán các tham số về gió, sóng biển, thủy triều để tự động duy trì vị trí của giàn khoan trên biển bằng cách điều chỉnh cánh quạt và động cơ đẩy. Trung Quốc dự kiến đưa giàn khoan này ra Biển Đông tác nghiệp, do nó được thiết kế chịu đựng mọi cơn bão khắc nghiệt ở vùng biển này.
Giàn khoan Hưng Vượng: Đây là giàn khoan bán ngầm nước sâu thứ 4 được Trung Quốc triển khai tác nghiệp tại Biển Đông. Hưng Vượng do công ty CIMC Raffles bàn giao cho Công ty Dịch vụ Dầu mỏ Trung Quốc (COSL) vào ngày 19/11/2014. Giàn khoan dài 105,5m, rộng 70,5 m, cao 37,5 m, có thể hoạt động ở vùng biển sâu đến 1.500 m, khoan sâu tối đa tới 7.600 m. Giàn khoan Hưng Vượng được đánh giá là hiện đại hơn Hải Dương 981 vì được trang bị hệ thống khoan tiên tiến nhất thế giới. Hệ thống định vị động lực có thể bảo đảm cho giàn khoan này hoạt động bình thường trong bão cấp 12 ở Biển Đông.
Theo cục Hải sự quốc gia Trung Quốc, giàn khoan Hưng Vượng tiến hành khoan thăm dò tại mỏ Lệ Loan trên Biển Đông từ ngày 27/5 – 15/8/2015. Phạm vi tác nghiệp có bán kính một hải lý xung quanh tọa độ 19°58′14.7″N 115°25′42.4″E. Mỏ dầu khí Lệ Loan nằm trên khu vực biển cách thành phố Chu Hải, tỉnh Quảng Đông khoảng 320 km về phía Đông Nam.
Giàn khoan Nam Hải 09: Giàn khoan Nam Hải số 9 được đóng mới tại nhà máy đóng tàu Daewoo Shipbuilding & Marine Engineering của Hàn Quốc năm 1988. Hiện tại, chủ sở hữu “Nam Hải số 9” là Công ty Dịch vụ Bãi dầu Trung Quốc (COSL) thuộc Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC). Nam Hải 09 là giàn khoan bán chìm dài 100 m, rộng 78 m. Giàn khoan này nặng 21.741 tấn, có khả năng hoạt động ở những vùng biển sâu 1.500 m. Khả năng khoan tối đa của nó là 7.600 m. Giàn khoan ngập 9 m khi di chuyển nhưng ngập sâu 25 m khi khai thác dầu. Nam Hải số 9 không thể tự di chuyển. Các đội tàu kéo sẽ đưa nó tới vị trí đã định. Theo thiết kế, giàn khoan Nam Hải 09 vận hành tốt trong điều kiện sức gió 110 km/h và hải lưu 4 km/h. Khả năng chống chọi tối đa của giàn khoan này là sức gió 190 km/h với hải lưu 4,8 km/h.
Cục Hải sự Trung Quốc thông báo, giàn khoan Nam Hải 09 đã vào vị trí và triển khai hoạt động khoan ở vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ từ ngày 24/6 – 20/8/2014.
Giàn khoan Nam Hải 4: Cục hải sự quốc gia Trung Quốc cho biết, giàn khoan “Nam Hải 4” sẽ tác nghiệp tại khu vực Biển Đông kể từ ngày 09/07/2014 đến ngày 30/06/2015, tại vị trí có tọa độ 18°36′48.″47 N/107°40′28.″43 E. . Vị trí hạ đặt giàn khoan Nam Hải 4 cách điểm vuông góc gần nhất trên đường phân giới vịnh Bắc bộ khoảng 35 km về phía Trung Quốc.
Giàn khoan Hải Dương 943 sẽ được thiết kế tự nâng, có thể hoạt động ở độ sâu tối đa là 122 m, và có thể khoan sâu tối đa tới 10.668 m.
Giàn khoan Hải Dương 944sẽ chủ yếu hoạt động ở các khu vực đất mềm, có thể hoạt động ở độ sâu tối đa 122 m và khoan sâu tối đa tới 9.144 m.
Giàn khoan Nam Hải 01 và Giàn khoan Nam Hải 05: Cục hải sự quốc gia Trung Quốc cho biết, Trung Quốc đã triển khai Giàn khoan Nam Hải 01 và Giàn khoan Nam Hải 05 vào khu vực nằm giữa phía Nam Trung Quốc và quần đảo Đông Sa do Đài Loan kiểm soát.
Mục đích của Trung Quốc khi triển khai phi pháp nhiều giàn khoan ở Biển Đông
Đầu tiên, Trung Quốc thông qua việc triển khai các loại hình giàn khoan thăm dò và khai thác dầu khí ở Biển Đông là nhằm kiểm tra, đánh giá trữ lượng dầu mỏ, khí đốt và băng cháy ở Biển Đông, để tạo điều kiện thuận lợi hoạch định chính sách, biện pháp khai thác (đa phần là phi pháp) trong khu vực.
Thứ hai, Bắc Kinh muốn làm chủ nguồn tài nguyên khu vực này và tạo ra sức ép sau đó sẽ khống chế tự do hàng hải, độc chiếm ngư trường ở Biển Đông. Đây là điều hết sức nguy hiểm vì nếu họ chiếm được 3 yếu tố này chính là họ đã “làm chủ” tình hình trong khu vực.
Thứ ba, Trung Quốc liên tục đưa các loại giàn khoan vào loại hiện đại và tiên tiến nhất thế giới vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho thấy Bắc Kinh đang muốn mở rộng và mặc định vùng đặc quyền, thềm lục địa từ cái mà họ tự cho mình có “chủ quyền” ở quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời với việc thể hiện rằng mình có hoạt động kinh tế ở khu vực này qua việc áp đặt giàn khoan trái phép, Trung Quốc cũng tiến hành xua một lượng lớn tàu cá ồ ạt vào đánh bắt ở vùng biển này để hợp thức hóa cho sự xâm chiếm trái phép đó. Khi tàu cá Việt Nam đánh bắt ở khu vực này thì Trung Quốc sẽ cho tàu cản trở, tấn công và lu loa lên rằng tàu cá Việt Nam vi phạm.
Thứ tư, thông qua việc triển khai các giàn khoan trên Biển Đông, Trung Quốc nhiều khả năng có ý định dùng giàn khoan dầu để từng bước giành quyền kiểm soát khu vực ngoài khơi, bước đầu là tạo một vùng kiểm soát không rõ ràng về pháp lý và chính trị rồi sau đó là chiếm lợi thế về vị trí địa lý trong khu vực.
Thứ năm, triển khai gian khoan ra Biển Đông là bước đi “chiến lược” của Trung Quốc tăng cường các hoạt động khiêu khích, quấy rối dựa trên các chiêu bài núp bóng dân thường; Gây ảnh hưởng trên dư luận quốc tế, ngăn cản các nước lân cận theo đuổi các hành động trái với lợi ích của Trung Quốc; Lợi dụng luật pháp quốc tế và Trung Quốc nhằm khẳng định quyền lợi của nước này đồng thời phủ nhận hay thay đổi các điều khoản không có lợi trong tranh chấp ở Biển Đông.
Thứ sáu, Trung Quốc đang tìm mọi cách để kiểm soát 80% diện tích Biển Đông và đã sử dụng mọi nguồn lực để đạt được mục đích: sức mạnh quốc gia – ngoại giao, quân sự, bán quân sự và thương mại – để đạt được những gì họ muốn.
Thứ bảy, hành động đưa giàn khoan vào Biển Đông đã một lần nữa khẳng định mưu đồ giành quyền kiểm soát vùng biển chiến lược này của Trung Quốc trong những năm gần đây.
Trung Quốc đã sử dụng nhiều thủ đoạn nguy hiểm, khó lường nhằm ngăn cản (phi pháp) các nước thăm dò, khai thác dầu khí hợp pháp ở Biển Đông
Đầu tiên, Trung Quốc tăng cường thăm dò dầu khí ở Biển Đông, bao gồm cả những khu vực tranh chấp mà một số quốc gia ASEAN tuyên bố chủ quyền, trong đó có Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Thứ hai, Bắc Kinh sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự, ngoại giao… để ngăn chặn các nước khai thác dầu khí ở Biển Đông. Trung Quốc (7/2014) chỉ trích việc Bộ Năng lượng Philippines đã gia hạn thêm một năm cho Forum Energy, một công ty dầu khí của Anh, tiến hành các hoạt động dầu khí ở khu vực Bãi Cỏ Rong (tên quốc tế là Reed Bank) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền với bãi đá này. Trong khi đó, Bắc Kinh cũng dùng ảnh hưởng và sức mạnh của mình để gây sức ép khiến PetroVietnam buộc phải dừng khoan thăm dò với các đối tác nước ngoài ở các lô 07.03 và 136.03 hồi tháng 3/2018 và 7/2017. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nhiều lần ngang ngược tuyên bố: “Không có sự cho phép của Trung Quốc, việc khai thác dầu khí của bất kỳ công ty nước ngoài nào trong vùng biển dưới quyền thực thi pháp lý của Trung Quốc là phi pháp và không có giá trị”; tiếp tục nhắc lại lập luận ngang ngược rằng Trung Quốc “có chủ quyền không tranh cãi” đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam và các vùng biển lân cận.
Thứ ba, Chính phủ Trung Quốc thực hiện nhiều chủ trương, chính sách ủng hộ đối với các hoạt động phi pháp của doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông, như hỗ trợ trên các phương tiện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, đưa ra chính sách ưu đãi khác thác như vốn đăng ký, thu thuế, thuế quan và tài chính, thiết lập quỹ khai thác rủi ro Biển Đông, đưa ra các chính sách phát triển ngành nghề hỗ trợ cần thiết để đẩy nhanh việc khai thác phi pháp ở Biển Đông.
Cộng đồng quốc tế đều bất bình và có các biện pháp phản ứng lại hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông
(1) Mỹ là quốc gia đầu tiên và liên tục bày tỏ “quan ngại nghiêm trọng” về tình hình Biển Đông ở nhiều cấp. Tổng thống Barack Obama cảnh báo rằng sự gây hấn mang tính khu vực như đã xảy ra ở Biển Đông hay bất kỳ khu vực nào trên thế giới có thể khiến quân đội Mỹ phải vào cuộc. Thượng viện Mỹ thông qua nghị quyết về Biển Đông, yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 và lực lượng hàng hải liên quan, kiềm chế các hoạt động hàng hải trái với Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va trên biển, và trả vùng biển Hoàng Sa về nguyên trạng. Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố việc Trung Quốc di dời giàn khoan ở Biển Đông là một bước đi “khiêu khích” và cho biết đang theo dõi sát tình hình. (2) Liên minh châu Âu (EU) bày tỏ lo ngại về an ninh khu vực Biển Đông sau khi Trung Quốc triển khai giàn khoan trong khu vực thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam. EU thúc giục các bên liên quan tìm kiếm các giải pháp hòa bình, hợp tác phù hợp với luật pháp quốc tế, tiếp tục đảm bảo an toàn và tự do hàng hải. (3) Lần đầu tiên sau gần 20 năm, ASEAN ra tuyên bố riêng về Biển Đông. Các ngoại trưởng bày tỏ lo ngại sâu sắc về những vụ việc do Trung Quốc gây ra có thể đe dọa hòa bình, an ninh và an toàn hàng hải, kêu gọi các bên không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. (4) Nhóm các quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới G7 bày tỏ lo ngại về tình hình căng thẳng hiện tại trên Biển Đông, đồng thời kêu gọi các bên liên quan giải quyết tranh chấp theo luật pháp quốc tế. G7 “phản đối nỗ lực đơn phương của bất kỳ bên nào muốn sử dụng biện pháp đe dọa, ép buộc hay vũ lực để khẳng định tuyên bố chủ quyền hoặc hàng hải”. (5) Hạ viện Nhật Bản thông qua nghị quyết lên án việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam làm trầm trọng thêm căng thẳng khu vực. Nhật Bản tuyên bố sẽ không tha thứ cho hành động đơn phương nhằm chiếm đoạt lãnh thổ và lợi ích hàng hải thông qua phô diễn vũ lực của Trung Quốc. (6) Các quốc gia khác như Singapore, Philippines, Indonesia, Anh, Italy… và các chuyên gia, tổ chức quốc tế, cũng liên tiếp phản ứng trước hành động của Trung Quốc và ủng hộ Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông suốt hai tháng qua.
Việt Nam liên tục đưa ra các tuyên bố khẳng định chủ quyền ở Biển Đông và phản đối các hành động phi pháp của Trung Quốc
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam liên tục đưa ra các tuyên bố khẳng định Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý cũng như bằng chứng lịch sử cho thấy chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; tuyên bố mọi hoạt động khai thác, thăm dò dầu khí của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, đi ngược lại Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, tinh thần Tuyên bố về cách Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); gây phức tạp tình hình và không có lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông. Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động nói trên, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không có hoạt động gia tăng căng thẳng, làm phức tạp tình hình ở khu vực.