Từ đầu năm 2018 đến nay, cùng với các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông và biện pháp đáp trả của Mỹ cùng cộng đồng quốc tế, giới chuyên gia, học giả quốc tế đã đưa ra nhiều nhận định, đánh giá về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); âm mưu, ý đồ, hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông; Phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016); hoạt động của Mỹ và các nước đồng minh ở Biển Đông…
Về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông:
Chuyên gia Ankit Panda của The Diplomat và Greg Poling, Trưởng Nhóm chuyên gia về Biển Đông của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS, 30/10) nhận định, trong hai năm qua, tuy đã có nhiều thỏa thuận công khai về tính kỳ vọng của COC, nhưng chưa có sự khao khát mãnh liệt nào để giải quyết các vấn đề khó khăn. Khung COC năm 2017 có ít chi tiết hơn DOC năm 2002. Đáng lo ngại hơn nữa, bản dự thảo đàm phán đơn nhất lại chứa đầy các yếu tố có thể làm chệch hướng các cuộc đàm phán. Ông Poling cho biết, để một thỏa thuận vừa công bằng vừa khả thi thì nó phải phù hợp với luật pháp quốc tế và nội luật của tất cả các nước, trong đó có yêu sách của Trung Quốc về quyền lịch sử. COC cần phải quản lý các căng thẳng xung quanh các tranh chấp, chứ không phải giải quyết chung. Tuy nhiên, nếu các tranh chấp biển, đặc biệt là liên quan đến quyền khai thác thủy sản và tài nguyên, có thể được quản lý theo một cách công bằng và hiệu quả, thì khi đó các vấn đề về lãnh thổ có thể yên tâm để lại cho các thế hệ sau thông thái hơn giải quyết. Trong khi đó, Lee YingHui, nghiên cứu viên cao cấp tại Chương trình An ninh biển, Trường Đại học Nghiên cứu quốc tế S. Rajaratnam, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore (23/8) cho biết, sau nhiều năm đàm phán về COC, Trung Quốc và ASEAN đã đạt được một số thành quả nhất định nhưng “ấn tượng về hoà bình được hình thành trong tình hình gần đây” lại cho thấy rõ về chiến lược Biển Đông đang thay đổi của Trung Quốc. Kể từ khi Phán quyết của Toà Trọng tài, Trung Quốc luôn tích vực với chiến dịch khôi phục hình ảnh của mình trong mắt các quốc gia ASEAN thông qua việc đưa ra một lập trường “thể hiện tính hợp tác hơn” về vấn đề này, chẳng hạn như cho phép ngư dân Philippines tiếp cận bãi cạn Scarborough trở lại; thúc đẩy các sáng kiến kinh tế cho các nước Đông Nam Á qua Sáng kiến “Vành đai và Con đường”; nhất trí tái khởi động các cuộc đàm phán đối với COC… Đáng chú ý, mặc dù Trung Quốc nhiều khả năng sẽ tiếp tục triển khai thêm các vũ khí hạng nặng tới các đảo nhân tạo ở Biển Đông, nước này bắt đầu áp dụng cách tiếp cận mềm dẻo và khôn khéo hơn nhằm củng cố yêu sách chủ quyền đối với các cấu trúc tranh chấp ở khu vực, trong đó có việc công bố kế hoạch phát triển các đảo không có người ở trên Biển Đông nhằm “bình thường hoá quyền tài phán của nước này đối với các cấu trúc này”. Trung Quốc cũng tận dụng việc các bên tranh chấp trong ASEAN không đưa ra phản đối công khai để đẩy mạnh các yêu sách của mình ở khu vực. Ông YingHui nhận định, các biện pháp phi quân sự đang dần trở thành chiến lược cốt lõi của Trung Quốc nhằm làm biến đổi nguyên trạng ở Biển Đông, chuyển từ cách tiếp cận quân sự đơn thuần sang cách tiếp cận nước đôi, bắt đầu từ khi Trung Quốc thành lập nên cái gọi là “Thành phố Tam Sa” nằm trên quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Cách tiếp cận này không gây chú ý dư luận, do đó cho phép Trung Quốc đạt được mục tiêu mà không làm ảnh hưởng đến hình ảnh của nước này. Việc tập trung vào các hoạt động dân sự cũng giúp nước này có cơ sở để chỉ trích các hoạt động hàng hải của Mỹ ở khu vực là “quân sự hoá”. Ông cảnh báo, trong bối cảnh Trung Quốc sẽ tiếp tục tiến hành thêm nhiều hoạt động gây hấn “mềm mỏng” ở Biển Đông trong thời gian tới, các quốc gia ASEAN cần lưu ý tới khả năng này trong bối cảnh các bên đang tiếp tục triển khai các cuộc đàm phán về COC.
Trong khi đó, Koh Swee Lean Collin, Đại học Công nghệ Nanyang (4/8) cho rằng những phát triển nhanh chóng trong tiến trình đàm phán COC kể từ tháng 8 năm ngoái đến nay là “một sự tiến triển đáng chú ý”, “tạo ra những ấn tượng tốt đẹp” song cần nghiên cứu kỹ hơn vào thực tế. Ông Collin cho hay cả Trung Quốc và ASEAN đều có những lợi ích nhất định trong việc đạt được Dự thảo duy nhất về văn kiện đàm phán COC. Đối với Trung Quốc, mặc dù nước này cho rằng việc không được mời tham gia vào cuộc diễn tập thường niên “Vành đai Thái Bình Dương” (RIMPAC) lớn nhất thế giới chỉ là “một chi phí không đáng kể” so với nhiệm vụ “bảo vệ các quyền và lợi ích thuộc chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông”. Nhưng trong bối cảnh nước này liên tục có những động thái chưa từng có tiền lệ nhằm tăng cường sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực, tác giả cho rằng Trung Quốc vẫn cần phải có một chiến thắng về chính sách đối ngoại giúp nước này xoa dịu những chỉ trích của báo chí, dư luận nhằm vào mình từ trước tới nay; hơn nữa, Bắc Kinh cũng phải tiếp tục củng cố hơn nữa những hoạt động xây dựng đảo cũng như những lợi ích của họ ở Biển Đông. Do đó, vào thời điểm này Trung Quốc thấy rằng họ cần khuyến khích những tiến triển trong đàm phán COC để nâng cao lập trường của mình, thay vì trì hoãn tiến trình này. Trong khi đó, ASEAN cũng được xem là có một số động cơ thúc đẩy để đạt được nhất trí với Trung Quốc về bản dự thảo, nhất là việc phải đối mặt với nguy cơ leo thang căng thẳng khu vực do Trung Quốc vẫn không ngừng quân sự hoá các vùng biển tranh chấp, đồng thời ASEAN cũng cần đảm bảo sự tham gia của mình vào tiến trình này và tạo thuận lợi cho các cuộc đàm phán tiếp theo mà vẫn có thể bảo toàn lập trường của mình. Tuy nhiên, ông Collin cho rằng vẫn chưa thể nói trước được điều gì về khả năng có thể đạt được văn kiện cuối cùng của COC bởi vẫn có nhiều thách thức đằng sau những ngôn từ và tinh thần của một văn bản cuối cùng mà tất cả các bên có thể cho là phù hợp và cùng nhất trí. Trong khi chờ một văn kiện cuối cùng, ông dự đoán rằng sẽ tiếp tục có những sự cố nghiêm trọng xảy ra ở vùng biển tranh chấp, Trung Quốc cũng sẽ tiếp tục các hoạt động hiện tại của họ ở khu vực nguỵ trang dưới cái gọi là “sẵn sàng phòng thủ” mơ hồ và khó hiểu. Và dù đã có những tiến triển mới trong quá trình đàm phán COC cũng không loại trừ khả năng sẽ xảy ra những sự cố hàng hải hoặc hàng không trong tương lai do bất kỳ tính toán sai lầm nào trong một động thái phòng thủ như vậy sẽ có khả năng dẫn đến các hành động leo thang gây hậu quả nghiêm trọng. Do đó, cho tới khi có một văn bản COC cuối cùng, tác giả bài viết cho rằng các nước cần tiếp tục với các biện pháp xây dựng lòng tin hiện tại – ví dụ như cuộc diễn tập chung trên biển giữa ASEAN và Trung Quốc được tổ chức trong tuần này tại Singapore và cuộc huấn luyện thực địa dự kiến sẽ diễn ra vào cuối năm nay, trên cơ sở Bộ Quy tắc về tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES).
Đáng chú ý, Tiến sỹ Ngô Sỹ Tồn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quốc gia Nam Hải, Trung Quốc (11/4) cho rằng COC cần “mang tính ràng buộc về mặt pháp lý ở một mức độ nhất định”. Ông Ngô Sỹ Tồn khẳng định, về lâu dài, một trật tự dựa trên luật lệ ở Biển Đông là phù hợp với lợi ích của tất cả các bên, trong đó có Trung Quốc; trật tự này sẽ giúp giải quyết các vấn đề cấp bách trong việc quản lý khủng hoảng và duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông. Mặt khác, ông lưu ý: “Mục đích của COC là xây dựng một cơ chế nhằm quản lý khủng hoảng trên biển và không giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán trên biển”. Ông Ngô cũng cho biết tình hình ở Biển Đông đang tạm lắng sau căng thẳng nhiều năm nhờ việc các quốc gia ven biển đã “chuyển sự tập trung từ các tranh chấp lãnh thổ và địa chính trị sang việc xây dựng các nguyên tắc và cơ chế nhằm quản lý tranh chấp” nhưng “các yếu tố có thể khiến căng thẳng leo thang trở lại vẫn chưa biến mất”. Ông cũng đưa ra đề xuất rằng bên cạnh việc xây dựng thể chế, chẳng hạn như COC, các bên cần triển khai hợp tác trên biển nhằm thúc đẩy sự phát triển chung ở khu vực, có thể là xây dựng kết nối, du lịch biển và nuôi trồng thủy sản.
Quan hệ Trung Quốc – ASEAN trong vấn đề Biển Đông:
Chuyên gia Ge Hongliang, Đại học các dân tộc Quảng Tây, Trung Quốc (28/10) cho rằng cuộc tập trận chung trên biển giữa ASEAN và Trung Quốc vừa qua là dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh và các nước Đông Nam Á đã nâng cấp quan hệ quân sự và quốc phòng, tiến thêm một bước vững chắc trong bảo đảm an ninh ở Biển Đông. Vấn đề bảo đảm an ninh tại khu vực này đã từ lâu là một trong những nội dung trọng tâm giữa ASEAN và Trung Quốc. Để hoạt động tập trận chung lần đầu tiên này được diễn ra, hai bên đã phải vượt qua nhiều khó khăn, có cả các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Hoạt động này được coi là kết quả của sự nâng cấp trong quan hệ quân sự. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đạt nhiều tiến triển trong hợp tác quốc phòng với các nước, trong đó có Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Philippines, Myanmar. Việc hợp tác sâu hơn có thể góp phần tạo sự thay đổi trong quan điểm của ASEAN về hợp tác an ninh khu vực. Trước đây, ASEAN từng ngần ngại phát triển quan hệ quốc phòng với các nước khác. Nhưng nay, khi cộng đồng an ninh ASEAN đang có đà phát triển, việc làm sâu sắc mối quan hệ quốc phòng với các quốc gia khác vì một trật tự an ninh khu vực ổn định là điều bắt buộc đối với các nước thành viên ASEAN. Hơn nữa, tại khu vực Biển Đông, ngày càng có sự phát triển không đồng đều và bất ổn gia tăng. Đối với các nước ASEAN, sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ đang xói mòn vai trò trung tâm của ASEAN trong các vấn đề khu vực, dẫn đến nhiều nguy cơ tiềm ẩn. Đối với Bắc Kinh, chính sách diều hâu của Washington về Biển Đông cũng khiến hai nước có thêm nhiều mâu thuẫn. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đang tìm kiếm một vai trò lớn hơn ở Biển Đông và đưa ra trách nhiệm lớn hơn để bảo vệ an ninh của chính mình. Trong khi đó, theo Hoàng Thị Hà, chuyên gia tại Trung tâm Nghiên cứu ASEAN, Viện ISEAS – Yusof Ishak của Singapore, cuộc tập trận giữa ASEAN và Trung Quốc “không phải một dạng trò chơi chiến tranh để kiểm nghiệm sự sẵn sàng chiến đấu trong các tình huống xung đột. Cuộc tập trận này có mục đích thực tiễn và xây dựng trong việc tăng cường trao đổi thực tiễn và phối hợp trong tìm kiếm cứu nạn, áp dụng Bộ quy tắc phòng tránh va chạm bất ngờ trên biển và sơ tán y tế”. Ngoài ra, vì lợi ích giữ gìn vùng biển, một cuộc tập trận trên biển giữa ASEAN và Mỹ cũng đã được lên kế hoạch triển khai vào năm sau. Hoàng Thị Hà chia sẻ “tầm nhìn rộng hơn của ASEAN là gắn kết không chỉ với các cường quốc mà với tất cả các đối tác nhằm giúp ngăn ngừa việc trật tự khu vực bị lệch theo quỹ đạo của một quốc gia đơn lẻ nào đó”.
Đánh giá chung về tình hình Biển Đông thời gian qua
Chuyên gia Eijas Ariffin cho rằng trong vòng 5 năm qua, vấn đề Biển Đông đã trở nên ngày càng phức tạp. Với việc yêu sách quyền lịch sử hầu hết Biển Đông và bác bỏ chiến thắng của Philippines trước Tòa Trọng tài, sự hiện diện của Trung Quốc tại vùng biển này đã trở nên nổi trội hơn. Trung Quốc đã không hề giấu diếm về sự hiện diện quân sự tại đây, bao gồm việc triển khai tên lửa chống tàu, tên lửa đất đối không, thiết bị làm nhiễu điện tử và gần đây là hạ cánh máy bay ném bom có khả năng mang đầu đạn hạt nhân tại đảo Phú Lâm. Hành động phi pháp của Trung Quốc khiến Mỹ hết sức lo ngại. Đối với Washington, đây không chỉ là vấn đề an ninh của các nước láng giềng bị đe dọa mà sự hiện diện của Trung Quốc ở khu vực có thể còn đe dọa đến lợi ích địa chính trị của Mỹ. Về ASEAN, cả khối đã cho thấy lập trường tương đối thống nhất liên quan đến các hoạt động quân sự ở Biển Đông. ASEAN nhận thức bản thân khối chỉ có ít quyền lực để giữ cho Biển Đông tránh xa tầm ảnh hưởng của cả Mỹ hay Trung Quốc. Do vậy, ASEAN chọn cách hành động như một nhà trung gian giữa hai cường quốc quân sự với mục tiêu tối thượng là bảo vệ lợi ích của khu vực. Hội nghị ADMM và ADMM+ gần đây cho thấy ASEAN đã tiến hành các bước đi chủ động nhằm bảo đảm an ninh ở Biển Đông. Trong Tuyên bố chung sau Hội nghị, các Bộ trưởng khẳng định họ đang tập trung vào tiến hành hoạt động tập trận chung và phát triển quy tắc trên biển nhằm giảm thiểu các nguy cơ va chạm và quản lý các vụ việc trên biển.
Hành động quyết đoán của Mỹ trên Biển Đông
Trái với thái độ tích cực của các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế, dư luận Trung Quốc tìm cách chỉ trích các hoạt động của Mỹ ở Biển Đông. Chen Xiangmiao thuộc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc (22/10) cho rằng tình hình Biển Đông gần đây dường như đang chứng kiến sự đối lập phân cực giữa Trung Quốc và Mỹ. Mỹ đã cùng với các đồng minh và đối tác sử dụng các biện pháp chính trị, ngoại giao, quân sự và công luận để kiềm chế Trung Quốc. Cụ thể, các bước đi quân sự thường xuyên của Mỹ đã đẩy Biển Đông đến bên bờ đối đầu. Trong hai năm qua, chính quyền Trump đã nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của Biển Đông trong chiến lược toàn cầu của Mỹ và sự hiểu biết về những thách thức và mối đe dọa mà Mỹ phải đối mặt ở khu vực đã thay đổi. Mỹ coi các hoạt động thực thi pháp luật, phát triển các đảo, triển khai thiết bị quân sự và thúc đẩy đàm phán COC mà Trung Quốc đang tiến hành là thách thức đối với sự kiểm soát của Washington ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chen Xiangmiao nhấn mạnh, đối mặt với một nước Mỹ hung hăng ở Biển Đông, Trung Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối phó, bao gồm cả việc gia tăng triển khai quân sự ở khu vực. Nếu Mỹ cứ khăng khăng cho rằng Biển Đông là nơi Bắc Kinh bắt đầu các cố gắng để thách thức vị thế của Washington như một siêu cường duy nhất và cạnh tranh quyền lực trong hệ thống quốc tế, thì quan điểm sai lầm này sẽ gây ra “một cuộc chiến không thể tránh khỏi” giữa hai nước tại vùng biển này. Wang Xiangwei, nguyên Tổng biên tập của tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng (7/10) cho rằng sự hiện diện ngày càng tăng của Mỹ ở Biển Đông đe dọa nguy cơ tạo ra các vụ đụng độ có thể dẫn đến chiến tranh. Sự đối đầu căng thẳng cùng với cuộc chiến thương mại Mỹ chống lại Trung Quốc cũng như các căng thẳng song phương khác, đã làm dấy lên lo ngại rằng mối quan hệ giữa hai bên, đặc biệt là về quân sự, xấu đi, sẽ không chỉ dẫn đến một cuộc chiến tranh lạnh mà có thể là một cuộc chiến tranh thực sự. Wang Xiangwei nhận định, kể từ khi Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền, Washington đã tăng cường các hoạt động tuần tra hàng hải, hàng không ở Biển Đông, phần lớn tại khu vực Trung Quốc tuyên bố chủ quyền, thậm chí còn khuyến khích các nước đồng minh như Anh, Australia, Pháp, Nhật làm điều tương tự. Tuy Mỹ tuyên bố không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ tại vùng biển này, nhưng các hoạt động quân sự của Mỹ tại đây rõ ràng là nhằm duy trì ảnh hưởng tại châu Á – Thái Bình Dương, đẩy lùi nỗ lực của Trung Quốc mở rộng tầm ảnh hưởng tại khu vực. Về bản chất, những gì đang diễn ra ở Biển Đông là cuộc chơi quyền lực giữa cường quốc đang thống trị và cường quốc đang nổi lên. Bottom of Form
Trong khi đó, Li Jiangang, Viện Nghiên cứu Nam Á và Đông Nam Á và Hải dương của Viện Quan hệ quốc tế đương đại Trung Quốc cho rằng trong những năm qua, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đã đạt đồng thuận cơ bản về duy trì ổn định ở Biển Đông. Tuy nhiên, có vẻ Mỹ không muốn chứng kiến vùng biển này chuyển từ một “chiến trường” nóng thành một khu vực tương đối tĩnh lặng. Đó là lý do vì sao Mỹ đã và đang cố gắng bám lấy Việt Nam và các nước láng giềng để ủng hộ cho nỗ lực của Washington nhằm thiết lập một vùng Biển Đông do Mỹ thống trị. Tuy nhiên, Li Jiangang kết luận cho rằng Việt Nam chưa sẵn sàng trở thành một quân bài của Mỹ. Với chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa, Hà Nội vẫn hy vọng giữ độc lập bằng cách làm bạn với các nước khác. Một mặt, Việt Nam muốn thân thiện với Mỹ để duy trì các hoạt động ở Biển Đông, chống lại việc Trung Quốc xây dựng đảo; mặt khác, Hà Nội lại không muốn một nước Mỹ xa xôi, không chắc chắn, can thiệp quá mức vào vấn đề Biển Đông làm ảnh hưởng đến cân bằng quan hệ với Trung Quốc, tổn hại đến nền hòa bình và phát triển khó khăn lắm mới giành được.
Trong khi đó, Patrick M. Cronin, Giám đốc Chương trình An ninh châu Á – Thái Bình Dương, Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS, 6/8) nhận định, cách tiếp cận hiện nay của Mỹ nhằm kiềm chế những hành động hiếu chiến leo thang của Trung Quốc ở Biển Đông chưa đạt được hiệu quả. Các hoạt động tự do hàng hải (FONOPs) của Hải quân Mỹ vẫn chưa đạt được mục tiêu chính trị trong dài hạn, đó là thay đổi thái độ và hành vi của Trung Quốc ở khu vực, hay là duy trì thượng tôn pháp luật quốc tế. Trung Quốc vẫn ngang nhiên mở rộng và phát triển các khu vực tiền đồn quân sự của họ trên Biển Đông. Mặc dù vậy, tác giả cho rằng vẫn còn cơ hội để xoay chuyển tình thế nhưng đòi hỏi phải có sự nhận thức rõ ràng về bản chất cốt lõi của “mối đe doạ”, xem xét lại những nỗ lực hiện tại để nhận định được hiệu quả và áp dụng những kinh nghiệm gần đây đã có để xây dựng các chiến lược mới hơn có thể tận dụng các sáng kiến và đạt được mục tiêu duy trì tự do biển cả và thượng tôn pháp luật trên phạm vi toàn cầu.
Đáng chú ý, Tiến sỹ Mark Valencia (10/10) nhận định mối quan hệ Mỹ – Trung đang xấu đi trên nhiều mặt, đặc biệt là quan hệ về quốc phòng. Hải quân Mỹ đang thể hiện sức mạnh ở eo biển Đài Loan, chống lại các yêu sách và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong bối cảnh hiện nay, điều này có thể dẫn đến đối đầu quân sự, thậm chí là xung đột. Nguyên nhân là do những chính sách và hành động của Mỹ ngày càng hung hăng chống lại Trung Quốc ở Biển Đông, thể hiện qua một loạt ví dụ như: Nhà Trắng công bố sẽ có “hậu quả trung hạn và dài hạn” đối với việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, Lầu Năm góc rút lời mời Trung Quốc tham gia tập trận RIMPAC 2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cảnh báo Trung Quốc tại Đối thoại Shangri-La, mới đây nhất Phó Tổng thống Mỹ Michael Pence đưa ra bài phát biểu mang tính chiến tranh lạnh để chỉ trích Trung Quốc. Tiến sỹ Mark Valencia cho rằng, dưới thời Tổng thống Donald Trump, Mỹ đã và đang đẩy nhanh các hoạt động quân sự trên biển, bao gồm các cuộc tập trận và hoạt động tự do hàng hải (FONOP) mà Trung Quốc coi là mang tính khiêu khích. Trung Quốc đã đáp lại một cách nhẹ nhàng mối đe dọa ngày càng tăng từ Mỹ, khẳng định các hoạt động của Trung Quốc là nhằm nâng cao năng lực của quân đội, chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến ở Biển Đông. Vấn đề cơ bản ở đây không phải về tự do hàng hải hay việc Trung Quốc quân sự hóa các cấu trúc hay đe dọa các nước khác. Cuộc chiến Mỹ – Trung nhằm giành quyền kiểm soát Biển Đông chỉ là biểu hiện của vấn đề sâu xa hơn là “sự đụng độ giữa các nền văn minh”. Cả hai quốc gia đều cảm thấy có quyền và sứ mệnh lãnh đạo và định hình trật tự thế giới phù hợp theo nhu cầu của mình. Do đó, cuộc đối đầu giữa hai quốc gia này ở Biển Đông chỉ là một cuộc cạnh tranh về hệ thống chính trị, kinh tế.
Cùng quan điểm trên, Tiến sỹ Patrick M. Cronin and Melodie Ha, thành viên Chương trình An ninh châu Á – Thái Bình Dương thuộc Trung tâm An ninh Mỹ mới (CNAS) cho rằng, trong bối cảnh Trung Quốc vẫn ngang nhiên duy trì những nỗ lực đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng trên Biển Đông và xa hơn là mở rộng sự kiểm soát của Trung Quốc ở các vùng kinh tế trọng yếu của khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, chính quyền Mỹ cần nhanh chóng cân nhắc một chiến lược biển nghiêm túc nhằm ngăn chặn những hành động bành trướng của Trung Quốc ở những vùng xám và tăng cường hợp tác với các đồng minh ở khu vực. Cụ thể, để có một chiến lược biển mới, góp phần thúc đẩy mạng lưới hợp tác giữa các nước đối tác và ngăn chặn mọi hành động đơn phương gây tổn hại đến nguyên tắc và thông lệ quốc tế, Mỹ cần: (i) tăng cường các biện pháp răn đe đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc của khu vực và thượng tôn pháp luật bên trong và xung quanh Biển Đông; (ii) đẩy mạnh những nỗ lực cả trong nước và trong hợp tác với các quốc gia khác nhằm nâng cao nhận thức trên lĩnh vực biển ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương; (iii) ủng hộ việc xây dựng một lực lượng dân quân biển của nhiều quốc gia nhằm đối phó với hành động đơn phương thay đổi nguyên trạng ở khu vực, góp phần đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông; (iv) lên tiếng trước những cáo buộc trắng trợn của phía Trung Quốc rằng “Mỹ chà đạp lên luật pháp quốc tế còn Trung Quốc mới là bên tuân thủ” vì sự thật hoàn toàn ngược lại và Mỹ cần cân nhắc việc phê chuẩn UNCLOS để nâng cao những lợi ích của Mỹ bằng cách thúc đẩy các quy tắc quản trị các đại dương trên thế giới, đồng thời sẽ tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Mỹ.
Về hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông
Giáo sư James Goldrick, Đại học Quốc gia Australia (9/10) cho rằng việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo, phát triển các căn cứ, thiết bị, gia tăng cường độ hoạt động hải quân, không quân cho thấy Trung Quốc đang nhằm kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Động cơ cho việc này có thể bao gồm các kế hoạch dài hạn về sử dụng các vùng biển sâu ở phía Bắc Trường Sa làm căn cứ cho các tàu ngầm tên lửa đạn đạo. Chắc chắn cũng có một yếu tố về tư tưởng “Vạn lý trường thành” xuất phát từ văn hóa chiến lược lục địa và trung tâm đất liền của Trung Quốc. Vấn đề chính hiện nay là Trung Quốc muốn tiến xa đến đâu. Việc Bắc Kinh liên tục thách thức sự hiện diện của các đơn vị quân đội nước ngoài ở Biển Đông cho thấy nước này sẽ cấm mọi sự hiện diện từ bên ngoài. Gần đây, Trung Quốc đã bắt tay vào một chiến dịch ngoại giao để trấn an các nước ASEAN về ý định hòa bình của mình. Tuy nhiên, khi đàm phán về COC, Trung Quốc đã đề xuất một điều khoản về việc cấm các nước ven biển tiến hành tập trận hải quân, không quân với cường quốc ngoài khu vực nếu không có sự đồng ý của các nước ký kết COC khác. Điều này đã cho thấy rõ thông điệp của Trung Quốc. Để đáp lại, chỉ có cách là duy trì sự hiện diện liên tục các lực lượng của Australia và các nước khác, nhằm thể hiện lợi ích và cam kết về một Biển Đông là không gian chia sẻ chung, được tất cả các quốc gia ven biển quan tâm sử dụng.
Christopher Roberts, Giám đốc Trung tâm quốc gia về Nghiên cứu châu Á (NASC), Viện Quản trị và Phân tích Chính sách, Đại học Canberra, Australia nhận định tại khu vực, Trung Quốc đang lạm dụng ngày càng nhiều sự phụ thuộc vào kinh tế của các nước để “làm biến chất” các quan hệ quốc tế và thay đổi trật tự dựa trên luật lệ, củng cố các chính sách “Xét lại”, vi phạm luật quốc tế, chèn ép các quốc gia khác trong khu vực, khiến trật tự dựa trên luật lệ suy thoái. Trung Quốc đã nhiều lần vi phạm Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) cũng như Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) bằng các hoạt động xây dựng và quân sự hoá các đảo nhân tạo với quy mô lớn. Mặc dù Mỹ và các đồng minh không đưa ra bất cứ sức ép nào trước những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông song Chính phủ Trung Quốc và các hãng thông tấn Nhà nước của nước này lại luôn rêu rao rằng Trung Quốc “là nạn nhân của các chính sách kiềm chế bất công của Mỹ và các nước đồng minh”, chỉ trích gay gắt các cuộc tuần tra hàng hải của Mỹ ở Biển Đông.
Trong khi đó, Giáo sư Panos Mourdoukoutas, Trưởng Khoa Kinh tế, trường LIU Post, Đại học Long Island, Mỹ (25/9) cho rằng, ở Biển Đông, Trung Quốc không chỉ bắt nạt các nước có tranh chấp trong khu vực như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, mà còn bắt nạt cả hải quân các nước muốn thực hiện tự do hàng hải tại vùng biển này như Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Anh và Australia. Tệ hơn, khi Trung Quốc thua Philippines trong vụ kiện trọng tài Biển Đông, Bắc Kinh đã đe dọa Tổng thống Philippines Duterte sẽ có chiến tranh nếu ông Duterte dám thực thi Phán quyết của Tòa Trọng tài. Trung Quốc cũng áp dụng “mô hình Duterte” để ép buộc Việt Nam phải dừng các hoạt động thăm dò dầu khí bằng cách dọa dẫm tấn công các mỏ dầu, khí của Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc lại bắt nạt Nhật Bản, một đồng minh của Mỹ, yêu cầu Nhật Bản tránh xa châu Phi – lục địa thứ hai của Trung Quốc. Rõ ràng, kiểu bắt nạt này không đóng góp gì cho thương mại, hòa bình hay thị trường tiền tệ, mà chỉ tạo thêm rủi ro cho sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Tiến sỹ Constantinos Yiallourides, Nghiên cứu viên tại Viện Luật quốc tế và So sánh Anh (BIICL) cho rằng, dù Trung Quốc đã nhiều lần cam đoan rằng “sẽ không sử dụng vũ lực” để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ nhưng các hoạt động cải tạo và xây dựng quân sự không ngừng tại các vùng lãnh thổ tranh chấp nhằm tạo ra một “sự đã rồi” và ép buộc các bên tranh chấp khác chấp nhận nguyên trạng mới này. Tiến sỹ Constantinos Yiallourides nhận định, những hành động của Trung Quốc được xem là một sự mở rộng lãnh thổ bất hợp pháp thông qua vũ lực, trái với luật pháp quốc tế. Bằng cách quân sự hóa các cấu trúc tranh chấp, Trung Quốc muốn cho các “đối thủ” của mình thấy rằng họ chỉ có hai lựa chọn, một là chấp nhận nguyên trạng mới và hai là “đối mặt với một cuộc chiến tranh tốn kém với một cường quốc lớn trong khu vực”. Thậm chí, ngay cả sau khi Toà Trọng tài quốc tế ra Phán quyết vào ngày 12/7/2016 vô hiệu hoá các yêu sách biển phi lý của Trung Quốc ở Biển Đông, nước này vẫn tiếp tục tăng cường và mở rộng lãnh thổ chiếm đóng của mình ở khu vực. Theo nhà khoa học chính trị hàng đầu M. Taylor Fravel, việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc trong các tranh chấp lãnh thổ của họ là nhằm mục đích “tạo ra cái uy đầy cứng rắn trong các tranh chấp lãnh thổ và răn đe các đối thủ của mình trong tất cả các tranh chấp khác”. Giải thích về hành động quân sự của Trung Quốc theo khía cạnh luật pháp quốc tế, ông Yiallourides khẳng định ngay cả khi sự triển khai vũ trang đơn lẻ không đủ nghiêm trọng để được coi là một cuộc tấn công vũ trang nhưng khi được thực hiện một cách tổng thể, những hành động của Trung Quốc vẫn có thể nằm trong phạm vi của một cuộc tấn công vũ trang được quy định tại Điều 51 của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Thêm vào đó, nếu việc Trung Quốc chiếm đóng và đơn phương triển khai lực lượng vũ trang trong quần đảo Trường Sa đủ điều kiện để bị xem là “sử dụng vũ lực chống lại các bên tranh chấp khác”, Trung Quốc sẽ bị xem là vi phạm “erga omnes”, các quốc gia bên thứ ba ngay cả khi họ không bị ảnh hưởng bởi những hành động của Trung Quốc cũng có thể yêu cầu nước này thực hiện trách nhiệm quốc tế. Có nghĩa là các quốc gia khác ngoài các nước yêu sách Biển Đông cũng có thể áp đặt một loạt các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, theo tác giả nhận định, liệu có nước nào sẵn sàng sử dụng các biện pháp đáp trả đối với Trung Quốc hay không vẫn là câu chuyện còn đang bỏ ngỏ.
Để đối phó với Trung Quốc, Giáo sư Go Ito, Đại học Meiji (7/2018) nhận định, trước cách hành xử thách thức trật tự toàn cầu trên biển của Trung Quốc hiện nay, cộng đồng quốc tế cần có những biện pháp đáp trả sau: Tập hợp các quốc gia cùng chung tư tưởng để ủng hộ Phán quyết; Sử dụng công cụ bảo vệ môi trường trên các vùng biển để xác định rõ những tác hại mà Trung Quốc gây ra cho môi trường ở khu vực; Sử dụng “cây gậy và củ cà rốt” để phát huy những giá trị của luật quốc tế: vừa nhắc nhở Trung Quốc về những quy định trong luật quốc tế liên quan đến an ninh biển nhằm xây dựng trật tự quốc tế dựa trên luật lệ vừa tìm kiếm các lợi ích chung trong việc duy trì ổn định và trật tự trên biển giữa tất cả các quốc gia liên quan.