Việt Nam là một quốc gia nằm ở cực Đông Nam bán đảo Đông Dương. Biên giới Việt Nam giáp với vịnh Thái Lan ở phía Nam, vịnh Bắc Bộ và Biển Đông ở phía Đông, Trung Quốc ở phía Bắc, Lào và Campuchia phía Tây. Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km không kể các đảo. Ngoài vùng nội thuỷ, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và cuối cùng là thềm lục địa. Diện tích vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km² Biển Đông.
Sau khi Công ước Luật biển 1982 được thông qua ngày 30/4/1982, Việt Nam là một trong 107 quốc gia đầu tiên tham gia ký công ước tại Montego Bay. Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn UNCLOS, trong đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam.
Việt Nam là thành viên có trách nhiệm của UNCLOS
Nhân kỷ niệm 30 năm UNCLOS, Việt Nam đã cho lưu hành tại Liên Hợp Quốc Báo cáo về việc “Việt Nam thực thi Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 với tư cách là một thành viên có trách nhiệm của Công ước”.
Báo cáo khẳng định sự ra đời của UNCLOS đã đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một chuẩn mực pháp lý quốc tế công bằng mang tính toàn cầu đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Từ khi có hiệu lực (ngày 16/11/1994), UNCLOS đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để điều phối các vấn đề liên quan đến biển, một công cụ pháp lý quan trọng để giải quyết, xử lý các tranh chấp biển và được coi là “Hiến pháp của đại dương”.
Là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260 km, Việt Nam có nhiều lợi ích lớn gắn liền với biển, tích cực tham gia vào quá trình thương lượng xây dựng và thực thi UNCLOS; luôn đề cao tôn chỉ và mục tiêu của Công ước, đồng thời có những hành động thiết thực vào việc thực hiện Công ước. Trước khi UNCLOS ra đời, Việt Nam đã tích cực vận dụng các quy định liên quan của luật pháp quốc tế để xây dựng các văn bản pháp quy về biển. Căn cứ vào xu thế phát triển tiến bộ của luật biển quốc tế, năm 1977, Việt Nam ban hành “Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển Việt Nam” xác lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, cho phép mở rộng quyền của Việt Nam ra biển, không chỉ giới hạn trong quyền đánh cá mà còn có các quyền chủ quyền và quyền tài phán khác. Với Tuyên bố này, Việt Nam là một trong những nước đi tiên phong trong việc đưa khái niệm “vùng đặc quyền kinh tế” trở thành khái niệm có giá trị tập quán và sau này trở thành một nội dung quan trọng UNCLOS.
Ngay sau khi UNCLOS được thông qua, Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước. Trước khi Công ước có hiệu lực, ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Nghị quyết phê chuẩn khẳng định chủ quyền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của UNCLOS và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế; yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Nghị quyết khẳng định chủ trương của Việt Nam giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được quy định bởi những nguyên tắc của UNCLOS.
Vận dụng các quy định của UNCLOS, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường pháp lý cho công tác quản lý biển và các hoạt động kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Ngày 21/6/2012, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Biển Việt Nam, gồm 7 chương với 55 điều, đề cập đến các nguyên tắc quản lý và sử dụng biển; phạm vi và quy chế các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo; các hoạt động trong các vùng biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ tài nguyên và môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế về biển. Căn cứ vào các quy định của UNCLOS, Việt Nam đã và đang tiến hành quản lý có hiệu quả và triển khai các hoạt động kinh tế biển trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của mình phục vụ phát triển kinh tế đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Trên thực tế, Việt Nam đã tiến hành đàm phán và ký kết các hiệp định phân định biển và các thỏa thuận khác với các nước liên quan như Hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Thái Lan (1997), Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc (2000), Hiệp định phân định thềm lục địa với Indonesia (2003), Thỏa thuận khai thác chung thềm lục địa chồng lấn với Malaysia (1992) hay Hiệp định về vùng nước lịch sử với Cambodia (1982). Đối với các vùng biển chưa phân định Việt Nam đang nỗ lực thúc đẩy quá trình đàm phán để đạt được một đường phân định công bằng. Đối với các vấn đề ở Biển Đông, Việt Nam cùng với các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký Tuyên bố Ứng xử trên Biển Đông (DOC) năm 2002. DOC quy định cụ thể các nguyên tắc như tôn trọng luật quốc tế trong đó có UNCLOS, hợp tác xây dựng niềm tin, hòa bình giải quyết tranh chấp và tự kiềm chế.
Chính phủ Việt Nam luôn bảo vệ những lợi ích hợp pháp của các đối tác nước ngoài trong hợp tác kinh tế, quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên biển phù hợp với các quy định của UNCLOS. Việt Nam cũng đã chủ động và hợp tác cùng các bên liên quan trong việc bảo vệ môi trường biển, cứu hộ, cứu nạn trên biển, phòng chống thiên tai và triển khai các biện pháp phòng chống tội phạm trên biển, nhất là cướp biển, góp phần thực hiện đầy đủ các quy định của UNCLOS.
Việt Nam cũng là quốc gia đã chủ động đưa ra nhiều sáng kiến liên quan khai thác bền vững nguồn tài nguyên biển và đại dương, liên quan đến bảo vệ môi trường biển, chống nước biển dâng cao.
Với chủ trương nhất quán thông qua các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, bất đồng trên biển, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả UNCLOS quyết các tranh chấp về phân định biển với các nước láng giềng, trong đó luôn đề cao nguyên tắc công bằng để tìm ra giải pháp hợp lý.
Mặt khác, Việt Nam luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS. Theo đó, khi bàn về các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam kiên trì yêu cầu “tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982”, coi đây như một nguyên tắc để giải quyết và xử lý các tranh chấp liên quan đến biển đảo. Việt Nam đã nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, kể cả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); Tuyên bố 6 điểm ngày 20/7/2012 của ASEAN về Biển Đông. Với nỗ lực của Việt Nam, nội dung “căn cứ luật pháp quốc tế, Công ước Luật Biển 1982 để tìm ra giải pháp cơ bản lâu dài cho các tranh chấp tại Biển Đông” đã được đưa vào vào Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc ký ngày 11/10/2011. Điều đó cho thấy Việt Nam không chỉ chủ động thực hiện nghiêm túc các quy định của Công ước Luật Biển 1982 mà còn luôn có ý thức thúc đẩy việc tôn trọng và thực hiện đầy đủ các nội dung của Công ước.
Căn cứ vào khuyến nghị trong Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS, Việt Nam luôn sẵn sàng cùng các bên hữu quan tiến hành hợp tác cùng phát triển ở những khu vực thực sự có tranh chấp, phù hợp với các quy định của UNCLOS.
Thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS, sau gần 3 năm nỗ lực (từ 2007 đến 2009), Việt Nam đã hoàn thành Báo cáo xác định ranh giới ngoài thềm lục địa bảo đảm chất lượng, xác định một cách có cơ sở khoa học và pháp lý phạm vi thềm lục địa mở rộng của Việt Nam ở Biển Đông theo đúng tiêu chuẩn, quy định của Ủy ban Thềm lục địa Liên Hợp Quốc. Việc làm này khẳng định rõ quyết tâm của Việt Nam trong việc thực thi UNCLOS.
Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các cơ chế quốc tế được thành lập theo UNCLOS ; tham gia xây dựng nhiều văn kiện pháp lý quốc tế và khu vực liên quan đến biển như Công ước quốc tế về Tổ chức Vệ tinh Hàng hải (INMARSAT), Hệ thống An toàn và Cứu nạn Hàng hải Toàn cầu (GMDSS)…, đồng thời đã lập hệ thống đài thông tin duyên hải đáp ứng thông tin liên lạc giữa các tàu và giữa các tàu với bờ.
Việc Việt Nam tham gia các văn kiện pháp lý liên quan đến biển của khu vực và quốc tế thể hiện rõ quyết tâm của Chính phủ Việt Nam trong việc thực thi đầy đủ những nội dung của UNCLOS.
Là một quốc gia gắn liền với biển, Việt Nam luôn đi đầu và không ngừng nỗ lực trong việc thực hiện UNCLOS. Việt Nam tin tưởng chắc chắn rằng, nếu các quốc gia ven biển đều thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ được quy định bởi UNCLOS thì nhân loại không những sẽ tránh được những căng thẳng, xung đột trên biển mà sẽ có điều kiện tốt hơn để khai thác biển và đại dương phục vụ lợi ích con người.
Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hành động theo mục tiêu, tôn chỉ và các quy định của UNCLOS; đồng thời yêu cầu, kêu gọi các quốc gia khác tuân thủ nghĩa vụ này.
Luật Biển Việt Nam đã cụ thể hóa các quy định của UNCLOS
Luật Biển Việt Nam được ban hành là sự kiện pháp lý rất cần thiết và quan trọng của quy trình xây dựng luật pháp của Nhà nước Việt Nam trong mối liên quan với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.Có 3 lý do để lý giải về sự kiện này, đồng thời cũng cho thấy mối quan hệ giữa Luật Biển Việt Nam và Luật Biển quốc tế :
Thứ nhất, sau khi ký Công ước, Quốc hội Việt Nam (năm 1994) đã phê chuẩn và đã chính thức trở thành thành viên Công ước. Việc nhanh chóng nội luật hóa, biến các quy định UNCLOS thành quy định cụ thể là yêu cầu tất yếu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải có nghĩa vụ thực hiện. Tất nhiên, mọi quy định của Luật Biển Việt Nam không được trái với nhưng quy định của Luật Biển quốc tế mà chỉ được phép cụ thể hoá các chế định, quy định của Luật Biển quốc tế.
Thứ hai, trước Hội nghị Luật Biển Liên hợp quốc lần 3 ký kết UNCLOS, để đáp ứng nhu cầu của công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động trên biển, Việt Nam đã có những văn bản quy phạm pháp luật về biển, nhưng chưa đầy đủ, toàn diện, chưa thích hợp để xử lý mối quan hệ ngày càng phát triển, các hoạt động kinh tế xã hội quốc phòng an ninh trên biển, đặc biệt trong tình hình tranh chấp phức tạp thì các văn bản đó chưa đáp ứng được. Do vậy không thể không có Luật Biển quốc gia để đáp ứng tất cả đòi hỏi đó và hơn nữa, điều đó cũng thể hiện trách nhiệm và tính nghiêm túc của Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức của UNCLOS.
Thứ ba, xu hướng thế giới hiện nay là hướng ra biển và đại dương. Trên thực tế việc khai thác nguồn lợi đại dương, từ giao thông hàng hải, tài nguyên sinh vật và không sinh vật, khai thác dầu khí càng ngày càng phát triển, đưa đến lợi ích rất lớn với quốc gia, đặc biệt quốc gia ven biển như Việt Nam, một quốc gia ven biển có bờ biển dài, vùng biển rộng. Sự nghiệp phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trong tình hình hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải vươn ra biển để khai thác và bảo vệ, quản lý biển là đòi hỏi tất yếu. Nếu không kịp thời có luật điều chỉnh ngay những hoạt động đó phù hợp luật pháp quốc tế, phù hợp quan hệ chính trị ngoại giao trong khu vực và các nước thì dẫn tới xung đột, mà nguy cơ xung đột không chỉ ảnh hưởng tới khu vực và thế giới, mà chính là lợi ích của đất nước và người dân.
Quan chức Việt Nam nhiều lần đưa ra các cam kết tuân thủ UNCLOS
Phát biểu tại Hội nghị lần thứ 28 các quốc gia thành viên UNCLOS (11 – 14/6/2018), Đại sứ Nguyễn Phương Nga, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc cho biết là một quốc gia ven Biển Đông, Việt Nam đặc biệt chú trọng bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển, đồng thời nhận thức rõ tác động tiêu cực của các tranh chấp biển đảo đến bảo tồn và sử dụng biển bền vững. Việt Nam luôn chủ trương giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hoà bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS; nhấn mạnh Việt Nam luôn chủ trương giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hoà bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS. Việt Nam hoan nghênh nỗ lực chung của các quốc gia liên quan nhằm xây dựng Biển Đông trở thành vùng biển hoà bình, ổn định và phát triển bền vững, trong đó có việc khởi động đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Việt Nam kêu gọi các tất cả các quốc gia thành viên tuân thủ đầy đủ các quy định của Công ước, tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý, thúc đẩy sử dụng biển và đại dương một cách bền vững, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không tại các vùng biển, tránh các hoạt động đơn phương, trong đó có hoạt động quân sự hoá các cấu trúc đang chiếm đóng, đi ngược lại với mục tiêu của UNCLOS, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và tài nguyên biển, cũng như quyền lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia theo UNCLOS và tiến trình xây dựng các quy tắc ứng xử.
Đại sứ Nguyễn Phương Nga cũng khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam ủng hộ chống khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (khai thác IUU), thông tin về các nỗ lực của Việt Nam đấu tranh phòng chống khai thác IUU và khẩn trương tiến hành các thủ tục nội bộ để trở thành thành viên Hiệp định về bảo tồn và quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa (UNFSA), Hiệp định về các biện pháp của các quốc gia có cảng nhằm ngăn chặn, chống lại và xoá bỏ khai thác IUU (PSMA); đồng thời nhấn mạnh công tác phòng chống khai thác IUU cần tính đến hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia, nhất là ở những nước mà việc khai thác thuỷ sản chủ yếu ở quy mô nhỏ và cần bảo đảm cân bằng giữa mục tiêu bảo tồn và phát triển nghề cá bền vững và mục tiêu an sinh xã hội, sinh kế cho cộng đồng dân cư ở các vùng duyên hải. Đại sứ Nguyễn Phương Nga nhấn mạnh Việt Nam cam kết tôn trọng và thực thi đầy đủ các quy định của Công ước, hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế bảo tồn và phát triển bền vững biển và đại dương vì tương lai chung của nhân loại.
Trước đó, tại phiên họp toàn thể của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Đại sứ Nguyễn Phương Nga (7/12/2016) khẳng định, UNCLOS là văn bản pháp lý quan trọng nhất quy định tất cả các hoạt động liên quan đến đại dương và biển, đóng góp cho hoà bình – an ninh, đảm bảo an toàn, an ninh và tự do hàng hải và hàng không trên biển và là khuôn khổ toàn diện và hiệu quả để giải quyết hoà bình các tranh chấp. Tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều phải thực hiện các quy định của UNCLOS một cách thiện chí và trách nhiệm. Là một trong những quốc gia đầu tiên ký và phê chuẩn Công ước, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của UNCLOS, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia khác và tích cực tham gia các hoạt động được tổ chức theo khuôn khổ của Công ước.