Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 tại Đại Hội đồng Liêp Hợp Quốc quy định rằng: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với quy định của Hiến chương Liêp Hợp Quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”. Vì vậy, việc Trung Quốc ngang nhiên sử dụng vũ lực chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam là vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương Liên hợp quốc.
Trận hải chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974
Sau khi quân Pháp rút khỏi Đông Dương, theo Hiệp định Genève 1954, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đảm nhiệm chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa cho đến khi Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực ngày 19/1/1974. Trận hải chiến bảo vệ quần đảo Hoàng Sa năm 1974 của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa là một bằng chứng lịch sử rõ ràng cho thấy Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế khi sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa đang thực thi chủ quyền lâu đời của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và việc liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này là một hiển nhiên trong lịch sử.
Trên thực tế khi ra tiếp quản quần đảo Hoàng Sa tháng 4/1956 từ quân đội Pháp, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa phát hiện Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép các đảo phía Đông của quần đảo này. Kể từ đó cho đến khi diễn ra trận hải chiến 1974, vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam không còn bình yên truớc những diễn biến làm phức tạp tình hình từ phía Trung Quốc. Từ năm 1956, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã phát hiện ngư dân Trung Quốc nhiều lần xâm nhập trái phép các đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quản lý. Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/1/1973, chấm dứt mọi sự can thiệp quân sự của Mỹ tại Việt Nam. Hạm đội 7- Thái Bình Dương của Mỹ cũng rút quân và các thiết bị ra khỏi vùng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Kể từ đó, các hoạt động xâm nhập trái phép của Trung Quốc lên các đảo trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngày càng gia tăng.
Để mở đầu cho kế hoạch gây chiến và đánh chiếm, ngày 11/1/1974 Trung Quốc đột ngột ra Tuyên bố phản đối việc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa 4 tháng trước điều chỉnh sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy của Việt Nam và nhắc lại yêu sách vô lý của họ về chủ quyền trên toàn bộ các đảo và quần đảo ở Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa). Ngay lập tức, ngày 12/1/1974, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra Tuyên bố bác bỏ yêu sách vô lý của Trung Quốc về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 16/1/1974, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục ra Tuyên bố với những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử minh chứng chủ quyền lâu dài và liên tục của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng trong ngày 16/1/1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) khi đưa một phái đoàn ra quần đảo Hoàng Sa để khảo sát xây dựng sân bay thì phát hiện hai chiến hạm của Trung Quốc gần đảo Cam Tuyền và quân Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép, cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc… Nhận được tin báo khẩn cấp, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng Hòa điều thêm chiến hạm ra quần đảo Hoàng Sa để ngăn chặn các hoạt động xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên vùng biển này của tàu chiến Trung Quốc với thái độ ôn hòa, kiềm chế. Cùng lúc đó, Trung Quốc cũng đã điều động một lực lượng tàu chiến hùng hậu tiến về phía quần đảo Hoàng Sa, trong đó có nhiều tàu đánh cá vũ trang và đổ bộ lên một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam để cắm cờ. Một số tàu cá vũ trang của Trung Quốc còn bám theo các chiến hạm của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đang trên đường ra Hoàng Sa, cản trở hành trình của các tàu Việt Nam bằng những hành động khiêu khích.
Ngày 17/1/1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đổ bộ một toán biệt hải lên đảo Vĩnh Lạc để nhổ cờ Trung Quốc. Toán đổ bộ còn phát hiện một số ngôi mộ giả mới đắp không hề có xương cốt với những tấm bia gỗ ghi chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về trước. Theo các nhân chứng, đêm 17 rạng sáng ngày 18/1/1974 là một đêm cực kỳ căng thẳng. Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình gia tăng sự khiêu khích, các chiến hạm của họ bắt đầu tiến sâu vào vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Các tàu chiến của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa liên tục ra tín hiệu cảnh báo: “Đây là lãnh hải Việt Nam, yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay”. Phía Trung Quốc cũng ra sức đáp trả và cho rằng quần đảo Hoàng Sa là “lãnh hải” của Trung Quốc, họ lì lợm không rút lui theo yêu cầu và cảnh báo ôn hòa từ phía Việt Nam. Ngày 18/1/1974, chiến hạm HQ-4 tiến về phía đảo Cam Tuyền, đổ bộ một toán biệt hải lên đảo lúc 8 giờ sáng. Sau khi hạ cờ Trung Quốc, toán đổ bộ phát hiện những ngôi mộ giả do phía Trung Quốc mới đắp giống như trên đảo Vĩnh Lạc hôm trước. Đến 11giờ cùng ngày, nhận được tin báo có hai tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc đang xâm nhập trái phép và tiến về quần đảo Hoàng Sa, các tàu HQ-4 và HQ-16 của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra ngăn chặn, dùng tín hiệu cảnh cáo và yêu cầu các tàu xâm nhập trái phép ngay lập tức phải rút ra khỏi vùng biển Việt Nam. Nhưng hai tàu cá vũ trang của Trung Quốc không chấp hành hiệu lệnh và cố tình khiêu khích, gây hấn. Tàu HQ-4 tiến thẳng đến gần một tàu cá Trung Quốc, nhìn thấy rõ thủy thủ đoàn trên tàu mặc đồng phục xanh dương đậm, có trang bị 2 súng đại liên và rất nhiều súng tiểu liên cá nhân. Tàu HQ-4 quyết định áp sát mạn tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc để xua đuổi và dùng loa phóng thanh hết cỡ yêu cầu họ ngay lập tức rút khỏi vùng biển Việt Nam. Phía Trung Quốc cũng ra sức đáp trả bằng những lời lẽ khiêu khích và gây hấn. Thấy không tác dụng, tàu HQ-4 dùng mũi ủi vào tàu Trung Quốc. Trước thái độ cương quyết của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa họ vội vàng tháo lui. Chiến hạm HQ-16 cũng quyết liệt tham gia xua đuổi tiếp các tàu cá vũ trang còn lại của Trung Quốc trong khu vực này. Buổi chiều cùng ngày, 3 chiến hạm của Việt Nam Cộng Hòa bao gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) được lệnh sắp đội hình hàng dọc tiến về đảo Duy Mộng. Khoảng 16giờ cùng ngày, có hai tàu chiến của Trung Quốc tiến ra khiêu khích, cắt đường ngang mũi các tàu HQ-4 và HQ-16. Do đội hình bị chia cắt, tàu của Việt Nam Cộng Hòa không thể tiến lên được, khoảng cách của hai bên rất gần nhau, các khẩu đại bác trong tư thế sẵn sàng chiến đấu nhưng các tàu của Việt Nam Cộng Hòa được lệnh phải hết sức kiềm chế và phải cố gắng hết sức để thuyết phục phía Trung Quốc lui quân.
Đêm 18 rạng sáng 19/1/1974, tàu chiến và tàu đánh cá Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng khiêu khích và ngày càng tiến đến gần quần đảo Hoàng Sa. Tàu HQ-4 phải dùng còi hơi thật to và đèn hồ quang thật sáng trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu Trung Quốc. Đến nửa đêm, hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) trong khi đang bị hỏng một máy chính chưa kịp sửa chữa, đã nhận lệnh ra Hoàng Sa tham gia đội hình chiến đấu. Khoảng 6 giờ sáng ngày 19-1-1974, Tàu HQ-4 đã tiến sát đảo Quang Hòa và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ khẩn cấp lên đảo. Theo ông Lữ Công Bảy, nguyên là thượng sỹ giám lộ có mặt trên chiến hạm HQ-4 trong trận hải chiến 1974, từ đài chỉ huy bằng ống nhòm, tàu HQ-4 đã phát hiện doanh trại mới toanh, có cột cờ Trung Quốc (trước đó hơn một tháng tàu HQ-4 có dịp khảo sát đảo này không hề thấy), như vậy Trung Quốc đã bí mật chiếm đảo mới đây. Đài chỉ huy đồng thời phát hiện một tàu Trung Quốc đang đổ bộ một đội quân rất đông lên phía bắc đảo, những chiếc tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc liên tục đổ người ào ạt lên các đảo của Việt Nam. Và họ đã nổ súng trước. Vào lúc 8 giờ 30 phút, một loạt đại liên và cối 82 của Trung Quốc đã bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sỹ tử vong và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam vẫn không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì đội hình người nhái Việt Nam đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm. Cùng lúc đó, xuất hiện hai chiếc tàu Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 ly và nhiều đại bác 37 ly ngay bên cạnh tàu HQ-4. Các họng súng đại bác của tàu Trung Quốc đều đang chĩa thẳng vào tàu HQ-4. Các tín hiệu bằng đèn cực kỳ khiêu khích của tàu Trung Quốc liên tục được chuyển tới tàu HQ-4. Khoảng 10 giờ, hai trục lôi hạm Trung Quốc mang số 389 và 396 bắt đầu tách khỏi hai chiếc 274 và 271, chạy song song gần nhau và bất chợt cùng quay mũi trực chỉ HQ-10. Vẫn chưa có lệnh khai hỏa từ phía Việt Nam Cộng Hòa. Các tàu chiến của Trung Quốc từ từ tiến gần đội hình của Việt Nam Cộng Hòa, còn cách tàu HQ-10 chỉ khoảng 200m, tình hình hết sức căng thẳng. Khoảng 10 giờ 25 phút, bốn chiến hạm của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa được lệnh nổ súng để tự vệ trước sự gia tăng gây hấn, khiêu khích và xâm chiếm trái phép ngày càng quyết liệt hơn của Trung Quốc. Những phát đạn đầu tiên của HQ-10 trúng ngay vào chiếc 389 của Trung Quốc làm nó bốc cháy, cùng lúc tàu HQ-16 cũng bắn thẳng vào chiếc 386 làm cho đài chỉ huy bị trúng đạn, hỏng hệ thống điều khiển bánh lái khiến nó cứ xoay vòng. Đang chiếm ưu thế, bất chợt khẩu 76,2 ly trên tàu HQ-10 bị trục trặc, thêm vào đó HQ-10 chỉ còn một máy chính nên xoay trở rất chậm trở thành mục tiêu dễ dàng của đối phương. Lợi dụng sự bất lợi đó, chiếc 389 đã tấn công tới tấp và HQ-10 trúng đạn. Không bỏ lỡ cơ hội, chiếc 389 của Trung Quốc tiến đến gần phía sau lái của HQ-10, nhưng bị các binh sỹ trên tàu HQ-10 chống trả dữ dội và điều khiển tàu đâm vào phần sau lái của chiếc 389, khiến chiếc này hư hỏng nặng và bị loại khỏi vòng chiến. Đây cũng là lý do khiến chiếc 396 phải ngưng chiến đấu với tàu HQ-16 để cấp tốc ứng cứu chiếc 389 và đưa chiếc này ủi lên bãi san hô để tránh bị chìm xuống biển. Tình trạng của tàu HQ-10 lúc này rất bi đát, hơn 70% chiến sỹ đã tử trận kể cả hạm trưởng. Các tàu Trung Quốc phản kích dữ đội. Cùng lúc đó Trung Quốc tung xuống một lực lượng rất mạnh từ đảo Phú Lâm ở gần đó và từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Các chiến sỹ còn trụ lại trên tàu HQ-10 đang bốc cháy vẫn tiếp tục nổ súng vào các tàu Trung Quốc, thu hút hỏa lực cho các đồng đội khác rút lui cho đến khi chìm hẳn xuống lòng Biển Đông của Tổ quốc. Sau khoảng hơn 45 phút giao chiến, theo tài liệu của Trung Quốc có các tàu của Trung Quốc mang số hiệu 274, 271, 389, 391 trúng đạn hư hỏng nặng; 281, 282 và 402, 407 hư hại trung bình. Theo tài liệu của Việt Nam Cộng Hòa, hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) trúng đạn bị chìm, HQ-16 bị hư hại nặng, HQ-4 và HQ-5 bị hư hại nhẹ. Việt Nam Cộng Hòa có hơn 50 binh sỹ tử trận. Trung Quốc bắt giữ 48 binh sỹ Việt Nam Cộng Hòa và một người Mỹ, sau đó trao trả cho Việt Nam và Mỹ tại Hồng Kông.
Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa liên tục phát ra nhiều Tuyên bố phản đối hành động “xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” này của Trung Quốc và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này. Trong khi đó, ngày 26/1/1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng ra Tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường “về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam. Ngày 5/6/1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã lên tiếng bác bỏ các thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa và Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền Việt Nam, từ trước đến nay luôn do người Việt Nam quản lý.
Trận chiến bảo vệ chủ quyền Trường Sa năm 1988
Trận chiến bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa của các chiến sỹ Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1988 là một sự kiện quan trọng trong chuỗi mắt xích các sự kiện liên tục khẳng định chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mặc dù hiện tại, quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa đang bị nước ngoài chiếm đóng trái phép, song các cuộc chiến đấu anh dũng của người Việt Nam bảo vệ các đảo và các quần đảo này trước sự tấn công xâm chiếm của quân đội nước ngoài đã khẳng định rõ ràng chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo đó là một sự thật hiển nhiên trong lịch sử và luật pháp quốc tế.
Từ cuối năm 1986, một số tàu dưới dạng đánh cá, không số của nước ngoài đã gia tăng hoạt động ở phía nam Biển Đông, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đặc biệt, những ngày cuối tháng 12/1986, nhiều máy bay và tàu chiến của nước ngoài đã thực hiện các hoạt động trinh sát từ đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền Chài thuộc quần đảo Trường Sa, vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Trong năm 1987, các hoạt động trinh sát, xâm nhập, khai thác trái phép tài nguyên của nước ngoài càng gia tăng và càng vào sâu hơn trong vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam khiến cho tình hình trong khu vực hết sức căng thẳng. Tình hình này không nằm ngoài dự đoán của các nhà lãnh đạo đất nước cũng như của Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam. Từ lâu Việt Nam đã có chủ trương tổ chức, triển khai lực lượng, nhanh chóng đóng giữ các đảo, các bãi đá ngầm trên quần đảo Trường Sa để khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Đề phòng khả năng từ những xung đột quân sự nhỏ có thể bùng nổ thành những cuộc xung đột lớn trên biển, Tư lệnh Hải Quân Việt Nam Đô đốc Giáp Văn Cương đã ra lệnh: “Hết sức bình tĩnh, kiềm chế, tự vệ là chính, không nổ súng trước, nhưng kiên quyết, táo bạo, với phương châm “có người, có đảo, còn người, còn đảo”. Chấp hành tuyệt đối mệnh lệnh của vị Tư lệnh, các cán bộ, chiến sỹ trên đảo đã không sợ hy sinh, quyết chiến đẩy lùi các hành động xâm chiếm của quân đội nước ngoài.
Trong những tháng đầu năm 1988, Hải quân Trung Quốc cho quân chiếm đóng trái phép một số bãi đá thuộc khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam như Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Huy Gơ và Xu Bi. Hải quân Việt Nam xây dựng thế trận phòng thủ ở các đảo Tiên Nữ, Đá Lát, Đá Lớn, Đá Đông, Tốc Tan và Núi Le bước đầu ngăn chặn hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng trái phép của binh lính Trung Quốc ra các đảo lân cận. Căn cứ tình hình thực tế trên khu vực quần đảo Trường Sa, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam xác định các đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao giữ vị trí rất quan trọng, nếu để nước ngoài chiếm đóng sẽ gây khó khăn cho việc tiếp tế, bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa của ta. Do vậy, Việt Nam cần phải quyết tâm bám trụ, bảo vệ các đảo này. Đây là một nhiệm vụ nặng nề bởi Hải quân Việt Nam trong tình thế cùng một lúc phải triển khai bảo vệ nhiều đảo trong khi phương tiện, trang bị, lực lượng hạn chế.
Đầu tháng 3/1988, Trung Quốc đưa hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, tăng số tàu chiến hoạt động ở đây thường xuyên có từ 9 tàu đến 12 tàu gồm: 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ và một số tàu hỗ trợ khác như 3 tàu vận tải LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông-tông lớn. Tình hình trong khu vực trở nên hết sức căng thẳng với sự có mặt của các hạm đội tàu chiến trang bị pháo lớn và tên lửa của Trung Quốc.
Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, ngày 12/3/1988 tàu vận tải HQ-605 thuộc Lữ đoàn 125 Hải quân Việt Nam từ đảo Đá Đông được lệnh đến giữ đảo Len Đao. Lúc 5 giờ sáng ngày 14/3/1988, tàu HQ-605 đổ bộ lên đảo cắm cờ Tổ quốc. Ngày 13/3/1988, các tàu vận tải HQ-604 và HQ-505 được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về đảo Gạc Ma, Cô Lin để bảo vệ hai đảo này. Phối hợp với các tàu HQ-604 và HQ-505 có 2 phân đội công binh (70 người) và 4 tổ chiến đấu (22 người) cùng một số chiến sỹ đo đạc vẽ bản đồ. Khoảng 17 giờ cùng ngày, sau khi 2 tàu của Việt Nam đến đảo Gạc Ma và Cô Lin, các tàu chiến của Trung Quốc xâm nhập trái phép đã áp sát và bao vây tàu HQ-604 của Việt Nam tại đảo Gạc Ma và dùng loa khiêu khích. Tình hình hết sức căng thẳng, song các chiến sỹ Hải quân Việt Nam đã hết sức kiềm chế, kiên trì neo giữ đảo và khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Các chiến sỹ Hải quân Việt Nam đã nhanh chóng triển khai lực lượng đổ bộ lên đảo, cắm cờ Tổ quốc và bố trí đội hình bảo vệ đảo. Lúc này, Trung Quốc điều thêm 2 tàu hộ vệ trang bị pháo 100 ly đến đảo Gạc Ma và tiếp tục khiêu khích, đe dọa buộc các tàu của Việt Nam phải rời khỏi đảo.
Khoảng 6 giờ sáng ngày 14/3/1988, Trung Quốc cho quân đổ bộ lên đảo Gạc Ma và tiến về phía có là cờ Việt Nam đang tung bay. Dựa vào thế đông quân áp đảo, lính Trung Quốc xông vào định giật cờ của ta, lập tức thiếu úy Trần Văn Phương, hạ sỹ Nguyễn Văn Lanh cùng đồng đội anh dũng kháng cự, lập thành đội hình “vòng tròn bất tử” quyết tâm giữ vững lá cờ Tổ quốc trên đảo. Quân Trung Quốc đã dùng lê đâm và bắn hạ sỹ Nguyễn Văn Lanh bị thương nặng, thiếu úy Trần Văn Phương lao vào cứu đồng đội đã bị đối phương bắn và anh dũng hy sinh. Trước lúc hy sinh, thiếu úy Trần Văn Phương đã hô to: “Hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ vinh quang của Tổ quốc”. Không buộc được bộ đội ta rút khỏi đảo, lúc 7 giờ 30 phút cùng ngày, hai tàu Trung Quốc đã nã pháo 100 ly vào tàu HQ-604 của Việt Nam, làm tàu này hư hỏng nặng, các chiến sỹ trên tàu HQ-604 đã kháng cự quyết liệt buộc binh lính Trung Quốc tràn sang chiếm tàu phải tháo lui, nhảy xuống biển trở về tàu của họ.
Tại đảo Cô Lin, lúc 6 giờ sáng ngày 14/3/1988, tàu HQ-505 của Việt Nam đã cắm 2 lá cờ Tổ quốc trên đảo. Khi HQ-604 bị trúng đạn và đang chìm dần xuống biển, thuyền trưởng HQ-505 cho tàu nhổ neo, phóng hết tốc độ ủi lên bãi. Phát hiện tàu ta đang chuẩn bị ủi bãi, hai tàu Trung Quốc quay sang tấn công, ngăn cản. Bất chấp hiểm nguy, HQ-505 lao hết tốc độ ủi được hai phần ba thân tàu lên bãi đảo Cô Lin thì bị trúng đạn bốc cháy. Lúc 8 giờ 15 phút, các chiến sỹ tàu HQ-505 vừa triển khai lực lượng cứu tàu, bảo vệ đảo, vừa đưa xuồng tới cứu cán bộ, chiến sỹ tàu HQ-604 đang bị chìm.
Tại đảo Len Đao, lúc 8 giờ 20 phút sáng ngày 14/3/1988, tàu Trung Quốc đã nã pháo dữ đội vào HQ-605 của Việt Nam, làm tàu này bốc cháy và bị chìm lúc 6 giờ ngày 15/3/1988. Cán bộ, chiến sỹ của tàu dìu nhau bơi về hướng đảo Sinh Tồn.
Mặc dù lực lượng chênh lệch, phương tiện vũ khí hạn chế, các chiến sỹ Hải quân Việt Nam đã chiến đấu kiên cường, anh dũng hy sinh, tuân thủ phương châm hết sức kiềm chế, chiến đấu tự vệ để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại các đảo Cô Lin, Len Đao và khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại đảo Gạc Ma bị Trung Quốc chiếm đoạt bằng vũ lực trong trận chiến không cân sức này. Trong trận chiến ngày 14/3/1988 bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa, Việt Nam bị thiệt hại 3 tàu vận tải, 3 chiến sỹ hy sinh, 70 chiến sỹ mất tích. Sau này, Trung Quốc trao trả cho ta 9 chiến sỹ bị bắt làm tù binh, còn lại 61 người mất tích cho đến nay. Như vậy, có tất cả 64 người con của đất Việt đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng biển của Tổ quốc sau trận chiến đấu bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại đây trong ngày 14/3/1988.
Cuộc tấn công bằng tàu chiến của Trung Quốc ngày 14/3/1988 trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam thực chất là một hành động xâm lược lãnh thổ của Việt Nam. Bởi vì, từ lâu người Việt Nam đã xác lập và khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách hòa bình, liên tục phù hợp với luật pháp quốc tế cũng như sự thật hiển nhiên của lịch sử. Theo luật pháp quốc tế, việc Trung Quốc dùng vũ lực để cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa và một số đảo của quần đảo Trường Sa không giúp họ tạo ra chứng cứ hợp pháp để khẳng định chủ quyền của mình. Nhân loại văn minh đã thể hiện ý chí của mình trong Nghị quyết 2625 ngày 24/10/1970 tại Đại Hội đồng Liêp Hợp Quốc rằng: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với quy định của Hiến chương Liêp Hợp Quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.