Tháng 08/2018, Tạp chí Chứng khoán Trung Quốc đưa tin, Bắc Kinh sẽ xây dựng 20 nhà máy điện hạt nhân nổi trên Biển Đông để “thúc đẩy phát triển thương mại”. Trước đó, năm 2017, tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng của nước này cũng đăng tải thông tin cho biết, một số công ty nhà nước Trung Quốc đã thành lập một liên doanh nhằm nâng cao năng lực điện hạt nhân của Trung Quốc cho phù hợp với kỳ vọng trở thành “cường quốc biển” của Bắc Kinh. Nhiều chuyên gia quốc tế về lĩnh vực hạt nhân cho rằng, những nhà máy kiểu như vậy sẽ đem lại những rủi ro nghiêm trọng đối với các nước ở gần nhà máy, bao gồm cả Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
Trước khi bàn về sự nguy hiểm của vấn đề làm nhà máy điện hạt nhân trên biển của Trung Quốc, hãy tìm hiểu một kế hoạch tương tự của Nga. Theo đó, ngày 28/04/2018, Tập đoàn hạt nhân Nga Rosatom tuyên bố Akademik Lomonosov – nhà máy điện hạt nhân nổi trên mặt nước đầu tiên của họ, đã rời Saint Petersburg, nơi nó được xây dựng từ năm 2009, tới thị trấn Pevek ở huyện Chaunsky gần Bắc Cực. Tại thị trấn này, Akademik Lomonosov sẽ được kết nối với lưới điện và cung cấp điện cho người dân địa phương thông qua hai lò phản ứng hạt nhân 35-MWe KLT-40S. Trong khi Rosatom ca ngợi đây là một thành tựu lớn của ngành công nghiệp hạt nhân Nga, một sản phẩm tiềm năng cho thị trường xuất khẩu hạt nhân, thì việc triển khai Akademik Lomonosov cũng gây quan ngại và vấp phải sự chỉ trích của các nhà hoạt động môi trường. Họ nêu lên các rủi ro về tính an toàn do môi trường khắc nghiệt của Bắc Băng Dương, nơi các “xà lan năng lượng hạt nhân” sẽ được vận hành và các tính năng bảo vệ hạn chế hơn so với các nhà máy điện hạt nhân hiện đại đặt trên đất liền. Cho dù Nga là nước có nhiều kinh nghiệm trong việc điều hành các tàu phá băng nguyên tử, một dạng nhà máy điện hạt nhân nổi trên biển, nhưng giới bảo vệ môi trường vẫn chỉ trích kế hoạch này và gọi nhà máy hạt nhân nổi của Nga là “Con tàu Titanic hạt nhân” hoặc “Chernobyl trên biển”. Điều này có nghĩa, các nước láng giềng của Nga và các tổ chức quốc tế như Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), vẫn phải theo dõi sát sao mọi hoạt động của loại hình nhà máy hạt nhân mới này để bảo vệ Akademik Lomonosov trước bất kỳ sự cố an toàn hoặc an ninh nào với những hậu quả có khả năng vượt ra ngoài biên giới.
Trở lại kế hoạch xây dựng các nhà máy điện hạt nhân nổi trên Biển Đông của Trung Quốc, không chỉ hai tờ báo nói trên của Trung Quốc đưa tin, mà trước đó (04/2016), tờ Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc cũng đã nói rằng: Năm 2016, hai nhà cung cấp hạt nhân lớn của Trung Quốc là Tập đoàn hạt nhân quốc gia Trung Quốc (CNNC) và Tổng công ty điện hạt nhân Trung Quốc (CGN) đã công bố kế hoạch hợp tác phát triển nhà máy điện hạt nhân nổi đầu tiên của Trung Quốc để triển khai tại Biển Đông. Theo đó, lò đầu tiên trong số 20 lò phản ứng dạng này sẽ được hoàn thành vào năm 2020. Các lò phản ứng trên không chỉ cung cấp điện hoặc nước khử muối cần thiết cho các đảo do Trung Quốc kiểm soát, mà còn hỗ trợ việc khai thác dầu khí của Tổng công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNOOC). Gần đây hơn, cơ quan ngôn luận chính thống của Trung Quốc là tờ Nhân dân nhật báo đã xác nhận về các kế hoạch trên. Giới quan sát thực sự lo ngại: Các dự án điện hạt nhân nổi này một khi được đưa ra Biển Đông, sẽ có thể giúp Trung Quốc đẩy nhanh việc lấp biển và xây dựng đảo nhân tạo tại khu vực tranh chấp.
Chưa bàn về khía cạnh pháp lý và quân sự tiềm tàng của việc triển khai các nhà máy điện hạt nhân nổi trên Biển Đông – nội dung này đã được báo chí và dư luận trong, ngoài khu vực đề cập, xin chỉ tập trung vào một vấn đề. Đó là rủi ro về an toàn của nhà máy đối với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á ở xung quanh Biển Đông khi các “xà lan điện hạt nhân” hiện diện tại vùng biển đang có tranh chấp.
Trước hết, đó là nguy cơ an toàn trong vận hành
Theo đánh giá của một chuyên gia nghiên cứu hạt nhân tại Viện Khoa học và Công nghệ tiên tiến Hàn Quốc, việc đảm bảo an toàn trong quá trình vận hành các nhà máy điện hạt nhân nổi dạng này là hết sức khó khăn vì đây là công nghệ mới, lại được vận hành trong điều kiện khắc nghiệt của Biển Đông, với nhiều hạn chế cố hữu về mặt an toàn như thùng lò nhỏ, xác suất xảy ra sự cố cao do nguy cơ lật “bệ đỡ” hoặc va chạm.
Về khía cạnh này, các chuyên gia đã lên tiếng bày tỏ quan ngại về năng lực của các cơ quan quản lý an toàn hạt nhân của Trung Quốc trong việc chưa theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng cả về số lượng và tính đa dạng của công nghệ trong chương trình hạt nhân dân sự của nước này. Hiện nay, Trung Quốc có 39 nhà máy điện hạt nhân hoạt động trên đất liền, sử dụng 3 loại hình công nghệ khác nhau (áp lực nước nhẹ, áp lực nước nặng và phản ứng nhanh tái sinh) của nhiều nhà cung cấp trong và ngoài nước. Ngoài ra, còn 18 nhà máy khác đang được xây dựng.
Năm 2011, Ủy ban Nghiên cứu Quốc vụ viện Trung Quốc đã đưa ra báo cáo cho thấy, Cơ quan An toàn hạt nhân quốc gia (NNSA) – cơ quan pháp quy hạt nhân chính của Trung Quốc, không có đủ nhân viên nếu so với các cơ quan tương tự ở các quốc gia có nền công nghiệp điện hạt nhân phát triển khác và nhìn chung, lương của các chuyên viên tại cơ quan pháp quy hạt nhân Trung Quốc thấp hơn so với các đối tác của họ làm việc trong ngành công nghiệp hạt nhân. Trong khi đó, Trung Quốc lại có kế hoạch đầy tham vọng nhằm xây dựng các loại lò phản ứng tiên tiến mới, bao gồm cả các lò phản ứng kiểu mô-đun nhỏ được sử dụng cho các nền tảng hạt nhân nổi và xuất khẩu sang các nước láng giềng. Do đó, NNSA và các tổ chức liên quan sẽ phải đối mặt với thách thức đáng kể trong việc đảm bảo an toàn cho đội “xà lan hạt nhân” nổi của Trung Quốc trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt và rủi ro va chạm từ giao thông hàng hải vốn có mật độ lớn tại Biển Đông. Khác với Nga, Trung Quốc chưa bao giờ chế tạo một chiếc tàu phá băng nguyên tử nào và do đó không có đủ kinh nghiệm trong việc xây dựng, vận hành hoặc quản lý an toàn cho các nhà máy điện hạt nhân nổi.
Cựu Tổng giám đốc của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) Mohamed ElBaradei đã từng nhận xét: “Tai nạn hạt nhân ở một địa điểm cũng là tai nạn ở khắp mọi nơi”. Bất kỳ sự cố nào xảy ra với các nhà máy điện hạt nhân nổi của Trung Quốc – dù là rò rỉ phóng xạ ra biển hay thùng lò hư hại do bão nhiệt đới hoặc va chạm với tàu bè, đều sẽ gây ra ảnh hưởng về kinh tế, môi trường và tâm lý nghiêm trọng không chỉ cho các nước trong khu vực như Việt Nam, Philippines hay Singapore mà còn cả các nước như Nhật Bản hay Hàn Quốc, những quốc gia đang phụ thuộc lớn vào nguồn cung dầu và khí đốt thông qua các tuyến vận tải biển trên Biển Đông.
Rủi ro trong hợp tác quốc tế về an toàn hạt nhân
Dự định của Trung Quốc về vận hành các nhà máy điện hạt nhân nổi trên Biển Đông bắt buộc phải hợp tác an toàn hạt nhân với các quốc gia Đông Nam Á giáp Biển Đông. Thông thường, để chứng minh cho cộng đồng quốc tế về sự an toàn của chương trình điện hạt nhân, một quốc gia cần thông qua Công ước An toàn hạt nhân và tham gia vào quá trình rà soát Công ước bằng cách gửi báo cáo quốc gia cho cuộc họp đánh giá vốn do IAEA tổ chức ba năm một lần. Sau khi tham gia Công ước này vào năm 1996, Trung Quốc thường xuyên đệ trình báo cáo quốc gia về an toàn hạt nhân tại các cuộc họp tổng kết, trong đó gần đây họ sử dụng bản đồ thể hiện cả vùng lãnh thổ tranh chấp trên Biển Đông mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Vì các báo cáo này thường được công khai, các bên thứ ba như các nước Đông Nam Á có thể xác minh liệu Trung Quốc có thực hiện các biện pháp an toàn cần thiết cho các cơ sở hạt nhân dân sự của mình hay không. Tuy nhiên, họ sẽ không thể kiểm tra được về chất lượng giám sát an toàn của Trung Quốc đối với các nhà máy điện hạt nhân nổi trong tương lai, vì Công ước An toàn hạt nhân chỉ áp dụng cho các nhà máy điện hạt nhân trên đất liền. Mặc dù các nước xung quanh Biển Đông vẫn có thể yêu cầu Trung Quốc cung cấp thông tin trong trường hợp xảy ra sự cố với các nhà máy điện hạt nhân nổi theo Công ước về Thông báo sớm tai nạn hạt nhân. Nhưng như thế là quá muộn để thực hiện bất kỳ kế hoạch ứng phó khẩn cấp hoặc giảm nhẹ tổn thất nào một khi xảy ra tai nạn.
Người ta có thể lập luận rằng, vấn đề thông tin liên lạc về an toàn hạt nhân dạng này có thể được cải thiện thông qua việc đàm phán ký kết các thỏa thuận song phương hoặc đa phương riêng biệt giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Đơn cử cho các thoả thuận dạng này là việc tháng 11/2017, Trung Quốc và Việt Nam ký biên bản ghi nhớ về hợp tác an toàn hạt nhân, trong đó tập trung vào việc trao đổi thông tin, chuẩn bị và ứng phó sự cố khẩn cấp. Biên bản ghi nhớ này được ký kết không lâu sau khi Việt Nam đề nghị Trung Quốc cải thiện việc cung cấp thông tin liên quan đến sự an toàn của các nhà máy điện hạt nhân của nước này được xây dựng và vận hành gần biên giới Trung – Việt, bao gồm các tổ máy điện hạt nhân ở Phòng Thành, Xương Giang và Trường Giang, trong đó nhà máy ở Phòng Thành chỉ cách biên giới giữa hai nước 50km. Tuy nhiên, khi các nhà máy điện hạt nhân nổi được Trung Quốc triển khai đến khu vực biển vốn cũng được tuyên bố chủ quyền bởi các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam hay Philippines, thì việc ký kết các thỏa thuận song phương hoặc đa phương tương tự là không thể, bởi các quốc gia này sẽ không hy sinh chủ quyền lãnh thổ của họ chỉ cho một thoả thuận về an toàn hạt nhân.
Thế nhưng, nếu không kênh trao đổi thông tin nào, các nước Đông Nam Á sẽ không thể đảm bảo Trung Quốc sẽ giữ được các tiêu chuẩn an toàn cao nhất cho các nhà máy điện hạt nhân nổi, trong khi đó, chính Trung Quốc sẽ mất đi áp lực cần thiết từ các đánh giá/kiểm soát đồng cấp của các quốc gia khác trong khu vực vốn là một phần quan trọng giúp tăng cường chất lượng quản lý an toàn hạt nhân.
Trong bối cảnh nguy cơ tiềm tàng về mặt an toàn đối với các nhà máy điện hạt nhân nổi của Trung Quốc trong tương lai và các vấn đề liên quan khác như trách nhiệm dân sự trong trường hợp xảy ra tai nạn, hoặc rủi ro an ninh từ cướp biển hoặc các nhóm khủng bố trong khu vực, kịch bản tốt nhất cho khu vực sẽ là Trung Quốc thay đổi nguồn cung cấp điện cho các đảo mà quốc gia này đang kiểm soát trái phép trên Biển Đông, hoặc ít nhất là trì hoãn việc triển khai các nhà máy điện hạt nhân nổi. Nhưng theo các nguồn tin của Trung Quốc, dự án vận hành thử nghiệm đầu tiên của lò phản ứng hạt nhân nổi của nước này có thể sẽ được triển khai ở Bột Hải, phía bắc Trung Quốc “trước năm 2020”. Sự phát triển nhanh chóng của chương trình hạt nhân nổi Trung Quốc khiến cho kịch bản tốt nhất nêu ra ở trên không thể xảy ra.
Điều đó có nghĩa là các nước Đông Nam Á – với sự hỗ trợ của ASEAN và Mạng lưới các cơ quan quản lý về năng lượng nguyên tử (ASEANTOM), các tổ chức và diễn đàn khu vực như Hội đồng hợp tác an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương (CSCAP) và các đối tác quốc tế khác quan tâm đến khu vực như Hoa Kỳ, Nhật Bản hoặc Hàn Quốc, nên sớm tìm ra ít nhất một kênh đối thoại với Trung Quốc để trao đổi thông tin về sự an toàn của cơ sở hạt nhân trên biển và quy định vận hành nó, không làm ảnh hưởng đến chủ quyền lãnh thổ của mỗi quốc gia xung quanh Biển Đông. Nói cách khác, việc tìm ra giải pháp bảo đảm an toàn cho các nhà máy điện hạt nhân nổi sẽ mang tính sống còn cho một Biển Đông trong tương lai không có rủi ro an toàn hạt nhân.