Để tìm cách độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã, đang cố tình viện dẫn sai các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) một cách có lợi cho Bắc Kinh.
Viện dẫn sai các quy định của UNCLOS
Trung Quốc với sự thèm khát tài nguyên cũng như với sức mạnh của một cường quốc đang trỗi dậy, đã và đang tiến hành những bước đi nhằm hiện thực hóa tham vọng chủ quyền và lãnh thổ của mình. Ngoài các kiểu “sức mạnh cứng” thường thấy từ quân sự, bán quân sự cho đến ngoại giao và kinh tế, Bắc Kinh còn sử dụng các định chế pháp luật như một thứ “quyền lực mềm” nhằm nâng cao tiếng nói cũng như tính “hợp pháp” của mình tại các khu vực tranh chấp.
Một trong những cơ sở chính để Trung Quốc có thể xác định chủ quyền của mình tại các vùng tranh chấp đó chính là khái niệm về “vùng nước lịch sử”. Khái niệm này không được đề cập trong UNCLOS, tuy nhiên nó được xác định thông qua thông lệ cũng như tập quán quốc tế. Theo đó, “vùng nước lịch sử” có các đặc điểm như sau: “1. Là vùng biển có cấu tạo địa lý đặc biệt, ăn sâu vào đất liền hoặc là một bộ phận gắn liền với lục địa; 2. Ở cách xa đường hàng hải quốc tế; 3. Có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về chiến lược, quốc phòng, an ninh, kinh tế,… đối với quốc gia ven biển; 4. Về mặt lịch sử, quốc gia ven biển đã chiếm hữu, khai thác, sử dụng từ lâu đời mà không có nước nào phản đối. Chế độ pháp lý của vùng nước lịch sử là tương đương với chế độ pháp lý của nội thủy”.
Bắc Kinh đã dựa vào Điều 4 ở trên. Theo Phó phòng Chính sách Đối ngoại thuộc Vụ Châu Á của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Zheng Zhenhua thì “những hòn đảo trong khu vực đã có người Trung Quốc sinh sống từ thời Đông Hán (năm 23 tới năm 220 sau Công nguyên)” và rằng “người Trung Quốc đã thiết lập một kiểu chính phủ “giống với hiện tại” từ thời Tống (năm 420 tới năm 478 sau Công nguyên) “như là một bằng chứng cho chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc” đối với những khu vực mà nước này yêu sách tại biển Đông. “Các quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi Nam Sa) đã nằm dưới quyền tài phán của khu vực hành chính mà nay thành tỉnh Quảng Đông”. Về chi tiết “không có nước nào phản đối”, Bắc Kinh cho rằng từ năm 1947 và qua suốt những năm của thập niên 1960, không có quốc gia nào, bao gồm cả Hoa Kỳ, “từng nêu câu hỏi hoặc nghi ngờ về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Với những luận điệu trên đây, về thực chất Trung Quốc vẫn không có bất cứ một dẫn chứng cụ thể nào để chứng minh cho lập luận của mình, đặc biệt là về dẫn chứng lịch sử. Họ dựa vào những câu nói trong các tác phẩm lịch sử cổ để lại. Tuy nhiên, ngôn từ trong những tác phẩm đó rất mơ hồ và nhiều khi cũng bị làm cho sai lệch về ý nghĩa hay thêm thắt câu chữ, khiến cho người không am hiểu dễ bị lầm tưởng. Về viện dẫn không có nước nào phản đối, trên thực tế, ngày từ Hội nghị San Francisco tháng 9/1951, không một quốc gia tham gia hội nghị nào đồng ý trao trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc cả và kể từ khi “đường lưỡi bò” được Bắc Kinh đưa ra thì ngay sau đó Việt Nam và một số nước ASEAN như Philippines và Indonesia đều đã gửi công hàm phản đối lên Liên Hiệp Quốc. Điều này trái ngược hoàn toàn với viện dẫn trước đó của Trung Quốc. Ngoài ra, khái niệm “vùng nước lịch sử” cũng hoàn toàn không nằm trong các khái niệm của UNCLOS mà Trung Quốc đã tham gia.
Không chỉ đưa ra các tuyên bố đầy mâu thuẫn và không có cơ sở vững chắc, Trung Quốc còn tận dụng những kẽ hở và sự không rõ ràng trong UNCLOS để tuyên bố chủ quyền của mình. Theo những nội dung quy định trong UNCLOS về lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mà Việt Nam cũng như các nước khác đã thông qua, nếu các quốc gia khác muốn thực hiện “quyền đi lại không gây hại” trên lãnh hải của quốc gia ven biển thì cần xin phép, còn đối với EEZ thì các quốc gia khác được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, cùng một số quyền hợp pháp khác theo đúng quy định của UNCLOS mà không cần phải xin phép, trừ các hành động không được cho phép theo luật định như khai thác tài nguyên hay nghiên cứu khoa học…
Tuy nhiên, trong tham vọng bành trướng của mình, Trung Quốc đã cố tình yêu sách về chủ quyền với EEZ như đối với lãnh hải. Cụ thể, Trung Quốc đã tước đi quyền tự do hàng hải của các quốc gia khác trên vùng đặc quyền kinh tế rộng 880.000 km2 của nước này khi tuyên bố các quốc gia khác cần phải xin phép Trung Quốc để được thực hiện “quyền tự do hàng hải” qua vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Đây là hành động vi phạm các điều luật của UNCLOS một cách nghiêm trọng và là nguyên nhân của vụ va chạm giữa tàu Impeccable của Mỹ và tàu Trung Quốc vào năm 2009.
Trong khi yêu sách về chủ quyền với EEZ đã xâm phạm tới quyền tự do hàng hải của các nước khác thì việc Trung Quốc cố tình diễn giải sai lệch về chế độ các đảo lại đe dọa cướp đi các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia khác tại biển Đông. Cùng với việc tuyên bố chủ quyền với các đảo và quần đảo trong “vùng nước lịch sử”, Trung Quốc còn yêu sách cho tất cả đảo, đá và quần đảo của mình có đầy đủ chế độ của lãnh thổ đất liền.
Theo đó, tất cả đảo, đá và quần đảo của Trung Quốc đều có lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế EEZ mà không phân biệt đảo, đá đó phù hợp quy định chế độ đảo của UNCLOS hay không. Theo UNCLOS, chỉ những đảo phù hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng mới được hưởng chế độ pháp lý của đảo như lãnh thổ đất liền. Còn về quần đảo thì UNCLOS không diễn giải. Nhưng điểm đáng lo ngại ở đây là nếu trong vùng đặc quyền kinh tế của các đảo đó có một đảo khác thì đảo này sẽ thuộc chủ quyền của Trung Quốc và lại tiếp tục được hưởng chế độ pháp lý đảo như lãnh thổ đất liền. Việc “nối chủ quyền” này đã dẫn tới kết quả là không chỉ những đảo của các nước khác nằm trong khu vực 200 hải lý xung quanh các đảo của Trung Quốc sẽ bị Trung Quốc coi là đảo của mình một cách trắng trợn, hơn thế nữa ranh giới “đường lưỡi bò” cũng sẽ được mở rộng hơn 80% Biển Đông và thậm chí chỉ cách một số bờ biển của các nước Philippines, Việt Nam… vài chục km.
Cùng với yêu sách chủ quyền trên EEZ như ở trên thì sau này, nếu Trung Quốc chiếm được Biển Đông thì các yêu sách này sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho các nước khác. Lúc đó, bất cứ một quốc gia nào đi qua biển Đông sẽ phải xin phép Trung Quốc và biết đâu, với tham vọng vô bờ bến của mình, Trung Quốc sẽ còn thu phí hàng hải trên biển Đông. Không chỉ dừng lại ở đó, nếu Trung Quốc và các nước trong khu vực xung đột thì thậm chí Trung Quốc có thể cấm các nước này lưu thông qua EEZ của mình và biển Đông sẽ bị khóa chặt. Các tuyến giao thông hàng hải của Việt Nam và các nước khác qua biển Đông sẽ phải đóng cửa và thậm chí là cả đường hàng không.
Trung Quốc có thể diễn giải sai lệch về chế độ các đảo là do Điều 121 của UNCLOS chỉ quy định về đảo chứ không có quy định về quần đảo. Thứ hai là do sự thiếu thống nhất của các nước về việc xác định thế nào là bãi đá và thế nào là đảo. Có thể thấy rằng có nhiều điểm mâu thuẫn giữa chính luật nội địa của Trung Quốc và luật pháp quốc tế, cũng như giữa những tuyên bố và hành động của Bắc Kinh.
Việc Trung Quốc cản trở các hoạt động hàng hải, hàng không quốc tế trong phạm vi 12 hải lý xung quanh các bãi đá nửa nổi nửa chìm hoặc chìm hoàn toàn dưới mặt nước biển khi thủy triều lên mà họ bồi lấp thành đảo nhân tạo (bất hợp pháp) ở Trường Sa đang vi phạm các quy chế dành cho các thực thể, cấu tạo trên biển theo Phần III của UNCLOS bởi các cấu trúc này không được hưởng bất cứ quy chế nào về các vùng biển. Theo đó, Trung Quốc đã vi phạm các Khoản 3, Khoản 5, Khoản 7, Khoản 8 thuộc Điều 60 của UNCLOS quy định đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong việc tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các công trình trên biển.
Trung Quốc cũng đã phớt lờ Điều 123 UNCLOS về trách nhiệm của các quốc gia ven biển hợp tác với nhau trong việc sử dụng các quyền và thực hiện nghĩa vụ của họ. Ba là, Trung Quốc vi phạm Điều 129, Điều 193, Điều 196 UNCLOS về nghĩa vụ chung cho tất cả các quốc gia trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Trung Quốc còn vi phạm Điều 208 UNCLOS về ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển.
Sự ngụy biện nguy hiểm của giới học giả Trung Quốc
Những năm gần đây Mỹ, Nhật Bản cùng với các nước ven Biển Đông như Philippines, Việt Nam và Malaysia đã nhiều lần tuyên bố “phải căn cứ theo luật quốc tế, trong đó có “Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển” (UNCLOS) để giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông”; “Trung Quốc phải tuân thủ quy tắc luật quốc tế”, “đường đứt đoạn theo chủ trương của Trung Quốc không phù hợp với UNCLOS”, thậm chí có một số người gọi là học giả còn đề xuất “phải lấy UNCLOS làm căn cứ để giải quyết vấn đề Biển Đông”. Những cách nói như trên thoạt nghe có vẻ khác nhau nhưng trên thực tế dụng ý và mục đích là như nhau, đó là chỉ trích chủ trương của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông là không phù hợp với luật quốc tế, yêu cầu Trung Quốc từ bỏ yêu sách chủ quyền ở Biển Đông.
Giới chuyên gia, học giả Trung Quốc cho rằng không thể dùng UNCLOS để chứng minh chủ quyền lãnh thổ hoặc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ; cho rằng nhận định vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ hoặc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ phải căn cứ theo các quy tắc và nguyên tắc trong luật quốc tế ở rất nhiều phương diện chứ tuyệt đối không phải quy định trong một công ước nào đó. Đây là một kiến thức thông thường hết sức rõ ràng trong lý luận và thực tiễn về luật pháp quốc tế. Căn cứ luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp lãnh thổ ít nhất bao gồm những quy tắc và nguyên tắc theo luật quốc tế như quy tắc có được lãnh thổ, quy tắc xác định thời gian, quy tắc xác định ngày tháng then chốt, quy tắc không truy ngược quá khứ, nguyên tắc cấm phản ngôn và quy tắc quyền lợi mang tính lịch sử.
Một điều hết sức cần thiết phải chỉ rõ là những quy tắc nói trên đều không phải là quy định trong UNCLOS. Xét từ quy định trong bản thân UNCLOS thì trong Lời nói đầu của Công ước đã chỉ rõ là “trong điều kiện tính đến chủ quyền của tất cả các nước, xây dựng một trật tự pháp luật về biển…”. Như vậy có nghĩa là trật tự biển được xây dựng theo yêu cầu của công ước nói trên là xuất phát từ một tiền đề, đó là không thay đổi chủ quyền quốc gia đã có.
Ngoài ra, dù không nói đến lịch sử lâu dài, chỉ cần nói đến tình hình từ khi thành lập nước Trung Quốc mới, ngay từ năm 1958 Trung Quốc đã “quy định cả bốn quần đảo ở Biển Đông với các đảo khác vào trong phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc”. Sau đó, trong “Luật lãnh hải và vùng giáp ranh Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” và trong những lần tuyên bố ngoại giao, Trung Quốc luôn nhấn mạnh “chủ quyền” của mình đối với các đảo Biển Đông, trong đó có quần đảo Trường Sa và đảo Hoàng Nham, hơn nữa đến nay vẫn chưa bao giờ từ bỏ. Trên thực tế, năm 2009 Philippines thông qua Dự luật số 2699 (gọi là “Dự luật về vấn đề liên quan đến điểm cơ bản về lãnh hải”) là hành động “có tật giật mình” của kẻ gian, vì Philippines thấy mình căn bản không có cơ sở pháp luật để chủ trương “quần đảo Kalayaan” và đảo Hoàng Nham thuộc chủ quyền của mình nên mới phải cho ra đời dự luật mới này để lấp đi chỗ khuyết thiếu nghiêm trọng này. Nhưng nếu chiểu theo luật pháp quốc tế thì cách làm luật nói trên của Philippines rõ ràng không có được tính hợp pháp, dự luật nói trên cũng tuyệt đối không thể có hiệu lực. Còn nước bảo hộ của Philippines là nước Mỹ lại không có bất cứ ý kiến bình luận gì đối với việc làm như vậy của Manila.
Không những vậy, một trong những căn cứ của luật quốc tế trong việc phán đoán chủ quyền lãnh thổ là quy tắc thụ đắc lãnh thổ, song quy định này không có trong UNCLOS. Xét từ ý nghĩa lịch sử thì quy tắc thụ đắc lãnh thổ đã bao hàm rất nhiều quy tắc liên quan, bao gồm phát hiện, chiếm trước, chiếm lĩnh hữu hiệu và quản lý hữu hiệu. Nó đòi hỏi phải xuất phát từ nhiều góc độ và phương diện để phán đoán một quốc gia có chủ quyền đối với một phần lãnh thổ nào đó có hợp pháp hay không, mọi việc làm của quốc gia đó có hiệu lực theo luật quốc tế hay không. Từ các thời Tống, Nguyên, Thanh đến nay Trung Quốc đã trải qua nhiều thực tiễn qua các thời kỳ xã hội, qua nhiều triều đại, nhất là các đời chính phủ ở thời kỳ cận đại và hiện đại, đặc biệt bao gồm những thực tiễn về việc “phát hiện, chiếm trước, quản lý hữu hiệu, đã có được chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Biển Đông một cách hữu hiệu”. Mặt khác, việc nhận định chủ trương quyền lợi của các nước ở Biển Đông hoàn toàn không phải chỉ có UNCLOS, mà còn phải dựa vào một quy tắc quan trọng khác trong luật quốc tế là quy tắc xác định thời gian, nghĩa là một hành vi nào đó trong lịch sử chỉ cần phù hợp với luật quốc tế ở thời kỳ lúc đó, thì hành vi đó sẽ là hành vi hợp pháp hữu hiệu. Cùng với quá trình phát triển của những quy tắc liên quan trong luật pháp quốc tế, những hành vi liên quan đến những quy tắc này cũng phải đổi mới và phát triển theo. Hàng trăm năm trước đây người Trung Quốc đã “thông qua các phương thức phát hiện và chiếm hữu để có được quyền lợi sơ bộ đối với các đảo ở Biển Đông mà lúc đó chưa thuộc về bất cứ nước nào”. Sau đó chính phủ qua các nhiệm kỳ đã thông qua các phương thức “đặt tên” cho các đảo và công bố bản đồ tương ứng, “hoạch định” các đảo đó vào khu vực hành chính địa phương, đưa tàu ra tuyên bố chủ quyền và tuần tra, tổ chức và quản lý các hoạt động của xã hội đến Biển Đông đánh bắt cá, đối phó với các “hoạt động xâm phạm chủ quyền” của nước ngoài, xây dựng luật hiện đại, từng bước có được chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Trường Sa. Thực tiễn qua các thời đại ở Trung Quốc không chỉ hoàn toàn phù hợp với quy tắc thu đắc lãnh thổ lúc đó, mà cũng phù hợp với quy định lãnh thổ theo luật quốc tế cận đại và hiện đại. Vì thế, theo quy tắc về xác định thời gian thì việc “Trung Quốc có được chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Biển Đông là hợp pháp, hữu hiệu”.
Ngoài ra, luật quốc tế còn có quy định không truy ngược quá khứ để xác định chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia. Ý nghĩa chính của nguyên tắc này là không thể dùng luật pháp của thế hệ sau để phán xét hành vi trước đây hợp pháp hay không hợp pháp. Đơn cử như yêu sách “đường 9 đoạn” của Trung Quốc, trước năm 1949 Chính phủ Quốc dân của Trung Quốc đã chính thức đặt tên và công bố bản đồ kèm theo “đường đứt đoạn” cho các bãi đảo ở Biển Đông, còn thông qua nhiều thực tiễn trên các phương diện về khai thác sử dụng tài nguyên như đưa tàu chiến đến Biển Đông tuyên bố chủ quyền, tổ chức và quản lý nghề cá, nhấn mạnh và củng cố chủ trương về quyền lợi ở Biển Đông. Sau năm 1949, Chính phủ Trung Quốc cũng kế thừa chủ trương của Chính phủ Quốc dân, vẫn tiếp tục đánh dấu “đường đứt đoạn” ở Biển Đông trên bản đồ chính thức của nhà nước, đồng thời cũng thông qua thực tiễn trong nhiều phương diện về lập pháp để nhấn mạnh và củng cố chủ trương về quyền lợi ở Biển Đông. Xét từ phương diện tài nguyên hiện hữu, nếu tính từ năm 1914 khi đường “đứt đoạn” ở Biển Đông bắt đầu xuất hiện thì “đường đứt đoạn” này đến nay đã được 104 năm, sớm hơn UNCLOS 84 năm, hoặc nếu chỉ tính từ khi Chính phủ Trung Quốc chính thức công bố năm 1947 thì đến nay cũng đã được 71 năm, sớm hơn thời gian có hiệu lực của UNCLOS 51 năm! Hơn nữa, “đường đứt đoạn” ở Biển Đông còn đề cập đến vấn đề về luật quốc tế khác phức tạp như quyền lợi mang tính lịch sử, vượt xa cả những nội dung được quy định trong UNCLOS. Vì thế tính hợp pháp của “đường đứt đoạn” ở Biển Đông tuyệt đối không đơn giản sử dụng UNCLOS để phán đoán và phủ nhận. Nói “Đường đứt đoạn ở Nam Hải của Trung Quốc không phù hợp với UNCLOS thì bản thân cách nói đó rõ ràng đã thiếu căn cứ theo luật pháp quốc tế, là hết sức sai lầm”.
Nhìn chung, một bộ phận giới chuyên gia, học giả và truyền thông Trung Quốc cho rằng một số nước “không ngừng nhào nặn hoặc chỉ trích vấn đề mang tính hợp pháp trong chủ trương về quyền lợi ở Biển Đông của Trung Quốc”, kỳ thực là những biểu hiện giật mình vì chột dạ, dụng ý của họ là nhằm đẩy lệch góc nhìn, chuyển dịch tiêu điểm mâu thuẫn, nhưng làm như vậy vừa “không thể làm thay đổi được tính chất phi pháp trong yêu sách chủ quyền Biển Đông của họ, cũng vừa không thể phủ nhận được tính hợp pháp trong chủ trương của Trung Quốc”. Trong khi đó lập trường không nói và ít nói mà Trung Quốc áp dụng cũng tuyệt đối không có nghĩa là không có cơ sở pháp luật và căn cứ lịch sử. Tuy nhiên, để làm cho những người quan tâm một cách khách quan và thực lòng vấn đề Biển Đông có thể hiểu được tình hình chân thực và chuẩn xác, thay đổi và đề phòng tin đồn thất thiệt, Trung Quốc cần phải tích cực chủ động lợi dụng nhiều kênh, áp dụng nhiều phương thức tuyên truyền để cộng đồng quốc tế “hiểu rõ hơn về bản chất tranh chấp ở Biển Đông”. Hiệu quả tuyên truyền tích cực và hướng dẫn dư luận sẽ tốt hơn nhiều so với bị động đối phó trước những chỉ trích theo dụng ý riêng.
Không những vậy, giới chuyên gia, học giả và truyền thông Trung Quốc còn cho rằng UNCLOS chỉ là một phần cấu thành của luật pháp quốc tế, không thể thay thế các quy tắc khác trong luật quốc tế, lại càng không thể giản đơn đánh đồng “luật quốc tế” với UNCLOS theo cách đánh tráo khái niệm. Giới học thuật Trung Quốc còn ngang nhiên ngụy biện rằng UNCLOS không phải là căn cứ duy nhất của luật quốc tế để nhận định hoặc giải quyết vấn đề yêu sách chủ quyền lãnh thổ Biển Đông, cũng như nhận định hoặc phủ nhận tính hợp pháp trong “đường đứt đoạn” ở Biển Đông.