Như nhiều chuyên gia đã từng đánh giá “Biển đông luôn như thùng thuốc súng”, các hoạt động va chạm giữa các bên tranh chấp cũng như của các nước khác ngoài khu vực thường xuyên xảy ra trên Biển đông. Thời gian gần đây, các va chạm càng tăng lên, do sự cọ sát giữa Trung Quốc và Mỹ hơn nữa Trung Quốc triển khai nhiều lực lượng giám sát Biển đông nhằm thực hiện tham vọng độc chiếm Biển đông.
Vụ việc đang gây sự chú ý mấy ngày qua, đó là ngày 13/6/2019, Bộ trưởng Quốc phòng Philipines cho biết tàu cá nước này bất ngờ bị “tàu Trung Quốc” đụng phải trong lúc đang neo đậu và bị chìm. Phía Trung Quốc sau đó rời khỏi hiện trường, bỏ rơi 22 ngư dân nhưng một tàu cá Việt Nam gần đó đã kịp thời cứu toàn bộ nạn nhân. Ngay sau đó đã có lời qua tiếng lại gay gắt giữa Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng cho đó chỉ là “tai nạn hàng hải thông thường”, còn Người Phát ngôn Tổng thống Philippines Salvador Panelo ngày 14.6 phản ứng lại “Điều chúng tôi nhắm đến là hành động bỏ mặc các ngư dân chứ không phải là việc va chạm tàu. Tai nạn xảy ra ở vùng biển xa nhưng hành động bỏ mặc ngư dân là vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982) và không cần thiết phải có luật quốc tếvề điều đó. Đó là hành động nhân văn khi chìa tay ra cứu người trong lúc nguy cấp”.
Tranh cãi giữ Trung Quốc và Philippines về vụ việc tàu cá bị đâm chìm có phải là lần đầu tiên Trung Quốc gây ra những vụ việc tương tự trên Biển Đông, xin thưa đây không phải là việc gì mới, thời gian qua người chịu nhiều đàn áp của Trung Quốc phải kể đến ngư dân và tàu cá Việt Nam.
Việc đâm chìm tàu cá của các nước không phải đơn thuần là những tai nạn hàng hải thông thường như Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng tuyên bố, mà đây là những hành động có chủ trương, ý đồ của Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc ráo riết sử dụng lực lượng Hải Quân bao gồm dùng hàng chục chiến hạm, hàng trăm tàu cảnh sát biển, và hàng ngàn tàu quân sự trá hình ngư dân đánh cá xua đuổi các tàu thuyền và tàu đánh cá của ngư dân các nước khỏi vùng biển quốc tế và khỏi cả chính vùng biển của các nước này; huy động hàng chục vạn tàu cá của ngư dân Trung Quốc chiếm lĩnh không chỉ vùng biển quốc tế nơi mà ngư dân các nước hoạt động đánh bắt thường xuyên mà còn vào sâu trong lãnh hải các quốc gia trong khu vực Biển Đông.
Việc đâm chìm tàu cá của các nước trên Biển Đông chỉ là một trong những kế sách của Trung Quốc; Trung Quốc đã và sẽ không từ thủ đoạn nào để nhằm độc chiếm Biển Đông, từ việc dùng vũ lực, ngoại giao, kinh tế….thể hiện rõ qua các hành động:
Về việc sử dụng vũ lực, từ năm 1956 và năm 1974 Trung Quốc đã sử sụng quân đội đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam; Năm 1988 cũng lại dùng vũ lực chiếm 06 thực thể trên quần đảo Trường Sa làm cho hơn 60 lính Hải quân của Việt Nam hy sinh; năm 1992 đã đánh chiếm đảo Vành Khăn khi Philippines đang chiếm giữ. Và để tạo lợi thế quản lý, giám sát Biển Đông, Trung Quốc đã bồi lấp 06 thực thể trên quần đảo Trường Sa với diện tích gấp hàng trăm lần diện tích thực, trang bị khí tài quân sự với những hệ thống súng phòng không và vũ khí tầm gần được thiết kế để chống lại các cuộc tấn công tên lửa.
Về mặt ngoại giao, kinh tế, Trung Quốc gây sức ép mạnh đối với các nước trong ASEAN thông qua các chính sách đầu tư tài chính nhằm “chia để trị”, đề nghị giải quyết tranh chấp với từng nước một. Với kế sách đàm phán song phương, Trung Quốc tách các quốc gia Đông Nam Á ra thành từng đối thủ riêng rẽ, để dễ dàng đè nát từng đối thủ một. Tuy nhiên, khi trung Quốc đưa ra yêu sách phi lý đường lưới bò chiếm 80% diện tích Biển Đông là lúc ở Biển Đông không còn là vấn đề song phương; khi Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo và quân sự hóa các đảo chiếm đóng để kiểm soát toàn bộ Biển Đông thì vấn đề Biển Đông không thể là vấn đề song phương nữa.
Trung Quốc luôn rêu rao, Biển Đông ổn định, không có vấn đề gì, nếu có vấn đề gì thì giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực tự giải quyết nhằm loại bỏ cộng đồng quốc tế ra khỏi vấn đề Biển Đông.
Một trong những kế sách nữa của Trung Quốc là thường xuyên thực thi chính sách cấm bắt đánh cá và đi lại trên Biển Đông. Dùng lực lượng Hải quân và cảnh sát biển để thực thi, biến Biển Đông thành biển riêng của Trung Quốc.
Trung Quốc thường xuyên đưa cư dân Trung Quốc đến các đảo Trung Quốc chiếm đóng ở Hoàng Sa và Trường Sa để khẳng định chủ quyền. Trung Quốc cũng luôn nhăm nhe để lập vùng nhận diện hàng không ADIZ nhằm kiểm soát vùng trời Biển Đông.
Để hạn chế các vụ việc tương tự như vụ tàu cá Trung Quốc đâm chìm tàu cá Philippines không xảy ra, các nước liên quan cần mạnh mẽ lên tiếng và có những hành động chung tay để làm thất bại các chủ trương thâm độc của Trung Quốc, như ông Carlos Zarate, một nghị sĩ thuộc Đảng Bayan Muna, kêu gọi Chính phủ Philippines phối hợp với các đối tác Việt Nam và Malaysia, tăng cường tuần tra sau sự việc tàu cá Trung Quốc đâm chìm tàu cá Philippines, “các cuộc tuần tra chung với Việt Nam và Malaysia cũng như các bên liên quan trong khu vực nên được tiến hành để ngăn chặn các động thái hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông”.
Lực lượng ngư dân của các nước được quyền đánh bắt trong phạm vi vùng biển của mình theo quy định của luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS 1982; Biển đông là khu vực mưu sinh nhiều đời nay của ngư dân các nước, không những thế ngư dân là một lực lượng quan trọng trong việcgiám sát, hỗ trợ thực thi chủ quyền biển của các nước; nếu các nước không có biện pháp hỗ trợ ngư dân thì môi trường sống của lực lượng này ngày càng bị Trung Quốc chèn ép làm mất ngư trường.
Nếu đểngư dân của các nước liên quan bị Hải quân Trung Quốc xua đuổi khỏi ngư trường của mình thì trên thực tế các nước này đã mất chủ quyền ở những vùng biển này đó tay Trung Quốc.
Thiết nghĩ ngoài việc lên tiếng phản đối, các nước như Philipines, Việt Nam… cần có thêm các hành động cả trên thực địa và có thể cả hành động pháp lý là kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế.
Để làm được việc này, các nước phải xây dựng lực lượng chấp pháp hùng mạnh, gấp rút đầu tư cho các lực lượng Hải quân, cảnh sát biển… và để làm thất bại tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc thì lực lượng hải quân và cảnh sát biển quốc tế là nhân tố không thể thiếu. Các nước đều có quyền tự do hàng hải, hàng không trên biển theo quy định của luật pháp quốc tế; khi lực lượng của các nước ngoài khu vực hiện diện trên Biển Đông sẽ làm cho Hải quân Trung quốc bớt ngông cuồng và không dám ngang ngược gây chiến trên Biển Đông.