Tuesday, October 1, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaMalaysia kêu gọi các nước tăng cường bảo vệ môi trường Biển...

Malaysia kêu gọi các nước tăng cường bảo vệ môi trường Biển Đông

Phát biểu tại Hội nghị Biển Đông lần thứ ba 2019 tại Đại học Malaya, Phó Vụ trưởng của Bộ Năng lượng, Khoa học, Công nghệ, Môi trường và Biến đổi khí hậu Malaysia Mohd Nor Azman Hassan (25/6) cho biết Biển Đông đang phải đối mặt với rất nhiều mối đe dọa từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm, khai thác tài nguyên, bao gồm cả việc biến đổi tự nhiên của môi trường biển.

Theo đánh giá của ông Mohd Nor Azman Hassan, Biển Đông là một vùng biển quan trọng được nhiều quốc gia sử dụng chung. Các quốc gia này phụ thuộc vào tài nguyên Biển Đông cho nguồn thực phẩm, các hoạt động thương mại, giao thông, du lịch và bảo vệ. Tuy nhiên, vùng biển này đang phải đối mặt với rất nhiều mối đe dọa từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm, khai thác tài nguyên, bao gồm cả việc biến đổi tự nhiên của môi trường biển. Do đó, Bộ Năng lượng, Khoa học, Công nghệ, Môi trường và Biến đổi khí hậu Malaysia cần phải đảm bảo sự bền vững của môi trường và sẽ cố gắng hướng tới một nền kinh tế “xanh” nhằm bảo vệ tài nguyên biển và môi trường chung.

Cùng quan điểm trên, Giáo sư Datuk Azizan Haji Abu Samah, Viện Khoa học Trái đất và đại dương cho rằng Malaysia đánh giá chưa đúng về tầm quan trọng của Biển Đông, đặc biệt là eo biển Malacca; đồng thời cho biết bất kỳ loại ô nhiễm nào cũng sẽ có tác động lớn đến eo biển Malacca vì đây là eo biển đông đúc thứ hai trên thế giới. Eo biển này đóng vai trò là trung tâm trung chuyển quan trọng nhất với khoảng 200 tàu thuyền đi qua mỗi ngày.

Được biết, từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc bắt đầu tiến hành cải tạo phi pháp quy mô lớn 7 bãi đá ngầm Chữ Thập, Ga Ven, Châu Viên, Gạc Ma, Tư Nghĩa, Vành Khăn và Xu Bi (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam) thành các đảo nhân tạo. Đến giữa năm 2015, Trung Quốc tiếp tục tiến hành cải tạo phi pháp đảo Phú Lâm, Duy Mộng và Quang Hòa (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc xâm chiếm trái phép năm 1956 và 1974). Trong quá trình cải tạo phi pháp, Trung Quốc đã sử dụng các máy hút bùn công suất lớn, nạo vét các rặng san hô xung quanh để tạo thành các đảo nhân tạo. Sau đó, Trung Quốc đã cho xây dựng nhiều công trình quân sự và dân sự trên các đảo nhân tạo, biến khu vực này thành những căn cứ quân sự kiên cố của Bắc Kinh. Hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc đã phá hủy gần như toàn bộ môi trường sinh thái xung quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Theo tính toán của các chuyên gia, Bắc Kinh xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa và Hoàng Sa đã tàn phá tới 160km2 rạn san hô và phá hủy gần 60km2 san hô vòng ở các khu vực xung quanh. Trong đó hoạt động bồi lấp, xây dựng đảo trái phép của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 14/15 km2; hoạt động nạo vét của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 39/40 km2; hoạt động nạo vét làm bến đỗ, kênh rạch cho tàu thuyền đi lại của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 2/3 km2; hoạt động khai thác trai khổng lồ của Trung Quốc gây thiệt hại khoảng 104/104 km2 san hô. Ông John McManus, Đại học Miami nhận định khoảng 10% diện tích san hô tại quần đảo Trường Sa và 8% diện tích san hô ở Hoàng Sa đã bị xóa sổ hoàn toàn do hoạt động của Trung Quốc gây ra. Theo Giáo sư Edgado Gomez (Philippines) ước tính rằng với mức độ phá hủy san hô hiện tại sẽ khiến các quốc gia ven biển trong khu vực Đông Nam Á phải gánh chịu thiệt hại 5,7 tỷ USD/năm, gây tác động tiêu cực xuyên biên giới.

Bên cạnh đó, hoạt động khai thác hải sản ồ ạt, bất hợp pháp, mang tính hủy diệt của ngư dân Trung Quốc ở các cùng chồng lấn trong khu vực Biển Đông đã gây ra suy giảm hệ sinh thái biển và nguy cơ tuyệt chủng của một số loài. Theo tài liệu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington D.C. (Mỹ) công bố tháng 9/2017, tổng lượng cá ở Biển Đông đã suy giảm khoảng 70-95% kể từ những năm 1950 và tỷ lệ đánh bắt đã giảm 66-75% trong 20 năm qua; hiện ở Biển Đông có thể chỉ còn 5% lượng cá so với thập niên 1950 và quá trình phục hồi các nguồn cá ở Biển Đông hiện nay rất thấp.

Ngoài ra, cùng với việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo và đưa lượng lớn binh lính ra đồn trú phi pháp ở Biển Đông cũng gián tiếp tác động, phá hủy môi trường sinh thái. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong quá trình Trung Quốc đưa quân ra đồn trú, sinh hoạt đã thải các kim loại nặng, chất ô nhiễm hữu cơ bền (POPs) và nước thải có thể chứa các kim loại nặng hoặc chất ô nhiễm hữu cơ bền trực tiếp ra biển mà không được xử lý gây những tác động rất nghiêm trọng tới môi trường và các hệ sinh thái biển. Không những vậy, việc xây dựng các công trình phi pháp ở Trường Sa và Hoàng Sa của Trung Quốc cũng làm thay đổi trường sóng và dòng chảy tại các khu vực biển gần bờ, tác động xấu tới hệ sinh thái biển cũng như làm thay đổi điều kiện đáy biển và cán cân bùn cát, trực tiếp phá hủy hệ sinh thái biển.

Được biết, Biển Đông chiếm vị trí địa chiến lược quan trọng đối với khu vực và thế giới và chứa đựng các lợi ích không chỉ đối với 10 quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực, mà còn đối với phần còn lại của thế giới. Đặc biệt là lợi ích đối với các nguồn tài nguyên, môi trường, đối với tự do hàng hải, hàng không trên Biển Đông. Chính vì thế, Biển Đông đã trở thành địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng truyền thống của các nước, đặc biệt các nước lớn trong lịch sử, đồng thời cũng đang phải đối mặt với các thách thức ngày càng gia tăng đối với an ninh môi trường biển; đối với an toàn, an ninh và tự do hàng hải, hàng không.

Vấn đề khai thác tài nguyên, an ninh hàng hải, hàng không và bảo vệ môi trường Biển Đông đang đứng trước nhiều thách thức, nhiều nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, môi trường biển bị ô nhiễm đến mức báo động, cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Việc hủy hoại và làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên biển ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã ảnh hưởng xấu tới tất cả các bên tranh chấp. Người dân trong khu vực chính là những người phải gánh chịu những ảnh hưởng trực tiếp bởi các tác động môi trường do các dãi san hô bị hủy hoại. Do đó, có lẽ người dân tại đây nên hình thành mạng lưới hành động bảo vệ các rạn san hô, tương tự như mạng lưới hành động vì rừng nhiệt đới toàn cầu.

Vì vậy, các nước cần tăng cường phối hợp để bảo vệ môi trường sinh thái ở Biển Đông. Theo các học giả, mỗi quốc gia đều phải có nghĩa vụ bảo vệ tài nguyên biển, tuân thủ các quy định và phán quyết quốc tế. Trong đó phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế trong vụ kiện của Philippines và Trung Quốc là rất đúng đắn và cần thiết. Tiến sĩ Masanori Muto, đại diện Viện nghiên cứu Mitsubishi, Đại học Tổng hợp Tokyo, Nhật Bản cho biết: “Phán quyết của Tòa là một tiền đề cơ bản cho những thảo thuận, hành động tiếp theo. Chúng ta cần phải hiểu rằng vấn đề trên biển rất phức tạp, cần có sự tiếp cận liên ngành, liên giới. Có rất nhiều vấn đề như an ninh, khai thác, chủ quyền… nên sẽ rất khó để có tiếng nói toàn diện. Nhưng hãy bắt đầu từ 1 phương diện cụ thể nào đó, ví dụ như vấn đề môi trường. Dần dần chúng ta sẽ có tiếng nói chung, chia sẻ thông tin với nhau và tiến tới thỏa thuận cơ chế đặc biệt. Một bức tranh tổng thể về Biển Đông cần có nhiều nét vẽ.” Tiến sĩ Masanori Muto cũng nhận định, Trung Quốc vẫn đang đẩy mạnh xây dựng trái phép trên Biển Đông và không ngăn chặn ngư dân của họ tận diệt tài nguyên biển, các nước rất khó ngăn cản Trung Quốc chấm dứt các hành vi phi pháp trên, chỉ trừ khi Bắc thấy được lợi ích của việc bảo vệ môi trường. Trong khi đó, Tiến sĩ Michael Parsons nhấn mạnh: “Trung Quốc vi phạm luật quốc tế, điều đó sẽ gây bất lợi cho họ sau này. Kinh tế vận tải biển của Trung Quốc cũng đang suy giảm, nhiều tàu đã không còn cập cảng của họ nữa. Nội bộ Trung Quốc cũng đang có mâu thuẫn về Biển Đông, người dân Trung Quốc biết quá ít thông tin về việc này. Họ sẽ thắc mắc tại sao đất nước họ lại đối đầu với tất cả ở Biển Đông”.

Cựu Giám đốc chương trình Địa Chính trị của Viện nghiên cứu Scott Polar (Anh), ông Paul Berkman cho rằng “an ninh môi trường” cần là ưu tiên trong chiến lược an ninh quốc gia của các nước ven biển bên cạnh sự ổn định chính trị hay an ninh quốc phòng. Theo ông Paul Berkman, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng thực phẩm đang tới gần, nhu cầu cân đối giữa các lợi ích về an ninh, quân sự với các lợi ích kinh tế từ biển đòi hỏi các nhà khoa học phải khẩn trương phối hợp để đưa ra các giải pháp, đặc biệt trong việc phát triển bền vững và bảo vệ môi trường biển. Riêng việc bảo vệ san hô tại Biển Đông, ông đề nghị thành lập một Mạng lưới Hành động vì San hô (Reef Action Network Coral), tương tự với mạng lưới bảo vệ rừng trên đất liền. Các chuyên gia xuất sắc nhất về đa dạng sinh thái và phát triển bền vững thuộc các nước có tranh chấp tại Biển Đông cần tập hợp lại tại một diễn đàn về chính sách, khoa học biển. Một ủy ban khoa học nghiên cứu Biển Đông cũng cần được thành lập để hướng các nước ASEAN đến hợp tác trong việc quản lý biển.

Giáo sư McManus thì cho rằng “một nước đánh bắt quá nhiều thì đương nhiên sẽ làm ảnh hưởng đến các nước khác. Nó cũng giống như trong cuộc sống hàng ngày, khi cơ hội trao cho bạn nhiều hơn thì cơ hội dành cho người khác sẽ ít đi. Vì thế nên cách tốt nhất ở đây là phải dừng ngay những tuyên bố chủ quyền phi lý. Nếu không muốn nguồn lợi thủy sản bị cạn kiệt, các nước liên quan cần phải ngồi lại với nhau để tính toán lại, phối hợp xây dựng kế hoạch đánh bắt ở Biển Đông. Chúng ta cần một thỏa thuận hòa bình, có thể kéo dài 30 năm rồi gia hạn và tiến tới thỏa thuận quản lý Biển Đông về nguồn lợi thủy sản.

RELATED ARTICLES

Tin mới