Biển Đông là một trong những vùng biển quan trọng, có các tuyến đường giao thông quan trọng nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á. Ngoài ra, trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Chính vì vậy, khu vực Biển Đông cũng là một trong những điểm nóng trên thế giới về nạn cướp biển.
Hiểu thế nào về cướp biển
Cướp biển được xác định không giống nhau bởi các tổ chức khác nhau. Theo Công ước ngăn chặn các hành vi trái pháp luật chống lại an toàn dẫn đường hàng hải (viết tắt SUA) thì định nghĩa rằng “cướp biển” là bao gồm bất kỳ sự cố nào liên quan đến bắt giữ tàu biển bằng vũ lực, hoặc bất kỳ hành vi nào gây nguy hiểm cho tàu bè, thuyền viên hay hàng hóa.
Mặt khác thì các tổ chức khác như Thỏa thuận hợp tác khu vực về chống vi phạm cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu bè ở Châu Á (viết tắt ReCAAP), một thỏa thuận hợp tác liên chính phủ nhằm chống lại các sự cố hàng hải thì có quan điểm tách biệt giữa “cướp biển” từ “cướp có vũ trang chống tàu bè”.
Tình trạng cướp biển đang ngày càng bùng phát tại khu vực Biển Đông
Vấn nạn hải tặc là chuyện trầm kha ở khu vực Đông Nam Á. Theo một báo cáo của Cục hàng hải quốc tế (IMB) thì gần 60% sự cố hàng hải giữa năm 1993 và năm 2015 chủ yếu diễn ra ở đây với hơn 20% các sự cố diễn ra chỉ tính riêng tại Indonesia. Ngược lại, cướp biển Somali (nổi tiếng thế giới bởi những vụ cướp chết chóc trong thập niên 2000) chỉ chiếm 17% các hoạt động cướp biển trong cùng kỳ.
Trước đây, số lượng các vụ việc gây ra do cướp biển châu Á chiếm đến 1/3 số lượng cướp tàu trên toàn thế giới, song cướp biển châu Á tuy ít được nói đến do chỉ có tính chất nhỏ lẻ như cướp tư trang, tài sản, hàng hóa nhỏ lẻ trên tàu. Tính chất phức tạp đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2013-2015, trong đó cướp dầu ở khu vực eo biển Singapore và eo Malacca gây rất nhiều thiệt hại cho nhiều chủ tàu có tàu đi ngang qua đây. Theo IMB, năm 2014 xảy ra 245 vụ cướp biển, 181 vụ xảy ra ở châu Á; năm 2015, Đông Nam Á xảy ra 120 vụ cướp biển tấn công, chiếm gần 30% số vụ cướp biển toàn cầu, gây thiệt hại trung bình mỗi năm ít nhất 8,4 tỉ USD.
Từ năm 2016 đến nay, hoạt động của nhóm tội phạm cướp biển trên khu vực biển châu Á, nhất là ở những khu vực biển trọng điểm, tuyến hàng hải có xu hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Theo số liệu thống kê, trong năm 2016 và 2 tháng đầu năm 2017, ở khu vực châu Á đã xảy ra 95 vụ cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền. Trong đó, bọn cướp đã thực hiện thành công 83 vụ. Các vụ cướp biển thường diễn ra tại một số khu vực như quần đảo Anambas, Natuna, Mangkai, Subi Besar, Pulau Jemaja, Pulau Siantan, Pulau Matak thuộc Indonesia; eo biển Malacca; khu vực ngoài khơi Tioman, Pulau Aur, Đông Sabah thuộc Malaysia; khu vực biển thuộc Miền Nam Phillippines. Đến năm 2019, hải phận Đông Nam Á vẫn là khu vực dễ bị cướp nhất thế giới, nhưng tỷ lệ các vụ cướp đang suy giảm. Giữa 2 năm 2017 và 2018, tổng số lượng các sự cố được báo cáo đã giảm từ 102 vụ xuống còn 76 vụ, và đến năm 2019 cho thấy cướp biển có vẻ án binh bất động. Ở hải phận Indonesia, chỉ có 3 vụ tấn công trong 3 tháng đầu năm 2019, ít nhất trong một thập kỷ.
Thủ đoạn hoạt động
Theo số liệu điều tra không chính thống, hàng năm ở châu Á, 90% các sự cố hàng hải được báo cáo là những vụ cướp tàu bè có vũ trang – kết quả là ngư dân trang bị vũ khí nhảy lên tàu bè để kiếm laptop và điện thoại di động, hoặc là kết quả của những vụ cướp được đào tạo bởi những tên cướp biển lành nghề để thu về khoản lợi hàng triệu USD. So với các vùng biển khác thì vùng biển Đông Nam Á lại ít xảy ra các vụ bắt cóc, đòi tiền chuộc và giết người. Ngay cả khi cướp biển ở đây được trang bị vũ khí thì họ cũng hiếm làm ai đó bị thương.
Nhìn chung, các vụ cướp trên biển khu vực châu Á có phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn cướp thường là: (1) Sử dụng từ 02 đến 04 tàu, xuồng loại nhỏ, có tốc độ cao (trên 25 hải lý/giờ) để tiếp cận, tấn công các tàu vận tải hành trình đơn lẻ trên biển; (2) Chúng tiếp cận, leo lên và tấn công từ phía đuôi, hoặc hai bên mạn tàu; (3) Chúng sử dụng vũ khí hạng nhẹ (súng tiểu liên, súng phóng lựu…) đe dọa, uy hiếp thuyền viên để đưa ra các yêu cầu về giảm tốc độ, hoặc dừng tàu để tiếp cận và leo lên. Khi sử dụng vũ khí, bọn cướp biển thường nhằm vào buồng lái, buồng ngủ, phòng Câu lạc bộ…; (4) Trong mỗi vụ, chúng thường sử dụng từ 01 đến 02 tàu mẹ, tàu mẹ có thể là tàu biển, tàu thuyền buồm, tàu đánh cá. Tàu mẹ dùng để chứa hàng dự trữ, nhiên liệu và có thể vận chuyển các hàng hóa cướp được. Các xuồng nhỏ để tấn công thường được kéo theo phía đằng sau tàu mẹ; (5) Để tấn công, leo lên tàu, bọn cướp thường sử dụng sào móc với thang dây dài và nhẹ, hoặc dây thừng để leo lên tàu. Khi đã lên được tàu, bọn chúng thường lên buồng lái để khống chế, kiểm soát hàng hải và thông tin trên tàu, yêu cầu cho tàu chạy chậm, hoặc dừng lại để cho đồng bọn tiếp tục leo lên tàu và khống chế toàn bộ thủy thủ đoàn, kiểm soát tàu, tổ chức cướp tàu, cướp hàng hóa vận chuyển trên tàu hoặc bắt cóc thuyền viên. Quá trình khống chế, kiểm soát tàu, nếu thuyền viên có hành vi chống đối, bọn biển sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng để sát thương nhằm quyết tâm thực hiện hành vi cướp đến cùng.
Giải pháp đảm bảo an ninh phi truyền thống trên Biển Đông
Để bảo đảm hòa bình và ổn định trong khu vực, ngăn chặn và hạn chế tác động, ảnh hưởng của vấn đề an ninh phi truyền thống ở Biển Đông, nhất là ngăn ngừa các vụ cướp biển trong khu vực, thì các nước trong khu vực cần phải hợp tác chặt chẽ trong nhiều lĩnh vực, cụ thể:
Thứ nhất, các nước liên quan, nhất là các nước ven Biển Đông cần tăng cường hợp tác, tuần tra song phương, đa phương trong khu vực, trong đó tập trung vào việc chia sẻ thông tin, tình hình cướp biển và cướp có vũ trang; công tác huấn luyện, diễn tập, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phòng, chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền; thiết lập và duy trì hiệu quả hoạt động của các đường dây nóng giữa lực lượng thực thi pháp luật trên biển của mỗi nước; thiết lập và tăng cường cơ chế tuần tra chung giữa lực lượng thực thi pháp luật trên biển của mỗi quốc gia ở các vùng biển giáp ranh…
Thứ hai, tăng cường sức mạnh lực lượng tuần duyên, cảnh sát biển, trang bị vũ khí hiện đại như súng máy, trực thăng chiến đấu hạng nhẹ; lắp đặt hệ thống giám sát bờ biển sử dụng radar, trang bị hệ thống nhận dạng tự động, cũng như nhiều thiết bị quản lý hiện đại khác… nhằm bảo đảm lực lượng thực thi pháp luật của mỗi quốc gia có đủ năng lực kiểm soát, kịp thời phát hiện, bắt giữ, xử lý các đối tượng có hành vi cướp biển và cướp có vũ trang.
Thứ ba, mỗi quốc gia trong khu vực cần chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến các phương thức, thủ đoạn hoạt động của bọn cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền cho các doanh nghiệp và đội ngũ thuyền viên, nhất là thuyền viên các tàu vận tải. Đồng thời, có các khuyến cáo, chỉ dẫn về huấn luyện, các biện pháp phòng vệ, phương án thông tin liên lạc khẩn cấp khi bị cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền tấn công…
Thứ tư, yêu cầu các chủ tàu trang bị hệ thống tự động nhận dạng (AIS); Hoàn thiện cơ chế phản ứng nhanh và cài đặt điểm an toàn xung quanh vùng biển Sabah, điểm nóng của tệ nạn cướp biển trong khu vực Biển Đông.
Thứ năm, hỗ trợ xây dựng, đào tạo lực lượng, diễn tập để nâng cao trình độ kỹ thuật, khả năng phối hợp chiến đấu.
Thứ sáu, các quốc gia hiện vẫn còn tồn tại các tổ chức khủng bố, tổ chức phiến quân cần tích cực, chủ động đề ra các biện pháp, chính sách phù hợp để kiểm soát, loại bỏ những tổ chức trên.
Thứ bảy,ASEAN và Trung Quốc cần thúc đẩy sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) với những quy định mang tính ràng buộc và có những điều khoản về việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Biển Đông. Ngoài ra, các nước cũng cần tích cực tham gia các cơ chế đối thoại khu vực và quốc tế để tăng cường, mở rộng hợp tác nội khối ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối tác trong phòng chống thách thức an ninh phi truyền thống trên biển. Tăng cường Hội nghị, diễn đàn đối thoại của các Tư lệnh Hải quân, Không quân, Cảnh sát biển ASEAN… Đây là các kênh đối thoại tầm chiến lược để các nước ASEAN và ASEAN với các nước đối tác trao đổi quan điểm, tạo sự đồng thuận trong nhận thức; xác định cơ chế, chính sách hợp tác trong đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống nói chung và an ninh phi truyền thống trên biển nói riêng phù hợp với thông lệ quốc tế và mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia.