Hiện nay, khu vực Biển Đông đang tồn tại hai loại tranh chấp chủ yếu, đó là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; tranh chấp ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước có bờ biển đối diện hoặc liền kề. Hai loại tranh chấp này được hình thành vào các thời điểm khác nhau, có nội dung và mức độ khác nhau, diễn ra trên những phạm vi địa lý có liên quan đến các bên tranh chấp cũng rất khác nhau.
Xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nên việc giải quyết tranh chấp này không hề đơn giản. Nhiều cuộc hội thảo quốc tế đã được tổ chức để tìm giải pháp cho vấn đề này. Gần đây nhất là vào tháng 08/2018, tại Washington/Mỹ đã diễn ra Hội thảo thường niên lần thứ 8 về Biển Đông do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS) tổ chức. Tại đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra bàn luận nhằm thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông một cách hòa bình, phù hợp với nguyện vọng của tất cả các bên. Trong cuộc hội thảo này, ba giải pháp chủ chốt được nêu ra, song nhiều ý kiến vẫn bày tỏ sự nghi ngờ về lập trường, quan điểm và thái độ nước lớn của Trung Quốc nếu như họ chấp nhận giải quyết tranh chấp với các nước ở Biển Đông bằng một trong ba giải pháp trên.
Trước hết là giải pháp kêu gọi các bên có tranh chấp cần phải có sự nhượng bộ. Bên lề hội thảo, ông Bill Hayton – học giả của Viện Chatham House ở London/Anh cho rằng, để đàm phán thành công, các bên tranh chấp “không thể cứ khăng khăng cho mình là nước có chủ quyền đối với các bãi đá và bãi cạn trên Biển Đông một cách phi lý, mơ hồ mà không quan tâm tới tuyên bố chủ quyền của nước khác được”, thay vào đó là cần phải có sự nhượng bộ khi đàm phán để giải quyết tranh chấp.
Theo ông Bill Hayton, hiện nay, Việt Nam và Philippines đang có tranh chấp chủ quyền đối với một số cấu trúc địa chất thuộc quần đảo Trường Sa, song so với Trung Quốc, thái độ của Việt Nam không quá gay gắt với Manila về các tranh chấp này. Ông Hayton khuyến cáo hai bên cần có sự nhượng bộ và một khi đã nhượng bộ nhau thì từ đó hai bên sẽ căn cứ vào Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) để phân định quyền sở hữu đối với vùng biển liên quan và các tài nguyên trong đó. Sau đó, hai nước sẽ tiến tới có hành động tương tự như cách làm của Malaysia và Brunei. Khi các nước Đông Nam Á đã có sự nhượng bộ lẫn nhau rồi thì có thể thống nhất lập trường với Trung Quốc và kêu gọi Trung Quốc cũng có sự nhượng bộ như vậy. Tuy nhiên, ông Hayton cũng thừa nhận rằng, không dễ gì để Bắc Kinh đưa ra nhượng bộ vì nếu thế, có nghĩa là Trung Quốc đã thừa nhận những hành động chiếm đóng tại các thực thể ở Trường Sa là phi pháp.
Ông Hayton cũng mỉa mai điều mà Bắc Kinh cho là “chủ quyền không thể tranh cãi” của họ đối với quần đảo Trường Sa. Theo đó, tại hội thảo ông Hayton đã đưa ra một tài liệu chính thức do Bộ Thông tin của Trung Hoa Dân quốc (tức Đài Loan sau này, vốn trước năm 1949 vẫn còn kiểm soát Trung Quốc Đại lục) xuất bản vào năm 1943. Tài liệu này cho thấy tuyên bố chủ quyền của họ trên Biển Đông xa nhất chỉ tới quần đảo Hoàng Sa mà thôi. Tới lần xuất bản thứ hai vào năm 1947, Chính phủ Trung Hoa Dân quốc lại bổ sung thêm quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa). Từ tài liệu này, ông Hayton đã kết luận rằng, cái gọi là “chủ quyền không thể chối cãi” của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã có từ thời xa xưa, nhưng sau khi tuyên bố Hoàng Sa là chủ quyền xa nhất của mình ở Biển Đông, mãi tới 4 năm sau lại bổ sung thêm quần đảo Trường Sa nữa, đây rõ ràng là một lời nói sai, không có căn cứ pháp lý rõ ràng nào cả.
Bày tỏ về khả năng nhượng bộ của Trung Quốc, bên lề cuộc hội thảo trên, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đài VOA rằng, liệu Trung Quốc có xem Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của họ không – tức là họ không thể có bất kỳ sự nhượng bộ nào và sẵn sàng dùng mọi biện pháp, kể cả quân sự, để bảo vệ lợi ích đó, một học giả hiện đang giảng dạy tại Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học Quốc gia Australia tham gia hội thảo cho rằng, việc xác định “lợi ích cốt lõi” ở Biển Đông “sẽ không có ích gì” đối với việc giải quyết tranh chấp cũng như hòa bình và an ninh khu vực và các học giả Trung Quốc đến nay vẫn còn tranh cãi về vấn đề này. Theo ông này, Trung Quốc đến nay vẫn không tuyên bố công khai liệu Biển Đông có phải là “lợi ích cốt lõi” hay không và Bắc Kinh vẫn duy trì “sự mơ hồ” này nên khó có thể dự đoán liệu họ sẽ thay đổi quan điểm như thế nào trong tương lai.
Đáp lại câu hỏi của phóng viên đài VOA rằng, liệu có hay không việc Bắc Kinh sử dụng vũ lực để thu hồi những vùng lãnh thổ mà họ cho là của họ để hoàn thành mục tiêu thống nhất đất nước trước thời điểm năm 2049, thời điểm mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình xác định là cột mốc để hướng đến xây dựng một nước Trung Quốc hiện đại và hùng cường, học giả này cho rằng “hy vọng là không” vì điều đó ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định trong khu vực. Tuy nhiên, thời điểm đó vẫn còn xa nên rất khó dự đoán chính xác được.
Trong phần trình bày của mình tại hội thảo, học giả trên cũng cho biết, không hiểu Trung Quốc có chấp nhận đàm phán giải quyết tranh chấp ở quần đảo Trường Sa hay không, vì đến nay Trung Quốc vẫn chưa tuyên bố đường cơ sở đối với các cấu trúc địa chất mà họ chiếm đóng trái phép ở quần đảo này, để từ đó xác định chủ quyền đối với các vùng biển có liên quan, trong khi đó họ đã và đang cải tạo, xây mới các thực thể này thành các đảo nhân tạo với tốc độ chóng mặt. Còn tại quần đảo Hoàng Sa, từ lâu Bắc Kinh đã vẽ đường cơ sở và tuyên bố họ không chấp nhận đàm phán về Hoàng Sa vì ở đây “không có gì tranh chấp”.
Tiếp theo là giải pháp kiên trì đàm phán. Đây là giải pháp được nhiều học giả tham gia cuộc hội thảo trên chấp nhận và đồng tình ủng hộ. Điển hình cho giải pháp này là Việt Nam. Theo đó, Việt Nam đã và đang theo đuổi con đường “kiên trì đàm phán” với các bên có tranh chấp như Trung Quốc, Philippines và Malaysia. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng không gạt sang một bên giải pháp pháp lý giống như Manila đã từng kiện Bắc Kinh ra Tòa Trọng tài thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA) vào năm 2014.
Trong thực tiễn, Việt Nam đã có kinh nghiệm trong việc đàm phán các vấn đề nhạy cảm và khó khăn trong các hồ sơ phân định biên giới trên bộ với Lào, Campuchia và trên biển với Thái Lan, Indonesia. Riêng với Trung Quốc, Việt Nam đã hoàn thành việc phân định cắm mốc biên giới trên bộ và phân chia vịnh Bắc Bộ. Tất cả các hồ sơ tranh chấp này đều được giải quyết trong hòa bình. Có thể khẳng định rằng, Việt Nam là nước “đi đầu” trong khu vực trong việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ theo giải pháp “công bằng, lâu dài và chấp nhận được”, xem đó là con đường để đảm bảo hòa bình và an ninh trong khu vực.
Trong khi chờ đợi để có được giải pháp lâu dài, Việt Nam cũng sẵn sàng chấp nhận những giải pháp tạm thời nhưng “thỏa đáng”. Giải pháp tạm thời này bao gồm hợp tác trên những vấn đề không nhạy cảm như tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, bảo vệ môi trường và hợp tác cùng khai thác.
Riêng với vấn đề hợp tác cùng khai thác (dầu khí) mà Bắc Kinh lâu nay vẫn vận động các nước thực hiện theo nguyên tắc của họ là “chủ quyền thuộc về ta (Trung Quốc), gác tranh chấp, cùng khai thác”, Việt Nam chủ trương không hợp tác cùng khai thác ở những vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam mà chỉ hợp tác ở những vùng biển có chủ quyền chồng lấn. Ngoài ra, Việt Nam chỉ hợp tác cùng khai thác sau khi dùng luật pháp quốc tế xác định rõ ràng vùng biển nào có chủ quyền chồng lấn.
Nguyên tắc cơ bản của Việt Nam khi theo đuổi con đường đàm phán cũng như giải pháp tạm thời là bám theo luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982, còn những yếu tố khác chỉ mang tính bổ sung và chỉ có giá trị tham vấn. Điều này trái với lập trường của Trung Quốc là đòi có “chủ quyền lịch sử” đối với Biển Đông, vốn không có căn cứ dựa theo luật pháp quốc tế.
Ngoài ra, theo giải pháp này, để đàm phán thành công, các bên cần phải “kiên trì, kiềm chế, có thiện chí và lòng tin”; cần phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của nhau, cũng như kiểm soát tư tưởng dân tộc cực đoan, kích động hận thù, bài ngoại của người dân trong nước vốn gây cản trở cho quá trình đàm phán. Tuy nhiên, cũng có những trở ngại đối với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông một cách hòa bình, đó là sự thiếu trách nhiệm và thiếu thiện chí, mưu cầu bá quyền thông qua việc “quân sự hóa” để tạo ra “sự đã rồi”, khăng khăng đòi hợp tác cùng khai thác không đúng nơi, không đúng trình tự (trước khi có phân định biên giới rõ ràng) và tuyên bố chủ quyền phi pháp (như “đường chín đoạn” của Trung Quốc và đòi hỏi vùng biển tối đa cho những thực thể không đủ điều kiện theo luật quốc tế). Để đàm phán thành công, Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ vai trò của khối ASEAN trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho đàm phán.
Cuối cùng là giải pháp dựa vào phán quyết của trọng tài. Tại hội thảo, một số học giả đã đề cập đến các vụ tranh chấp chủ quyền lãnh hải và tài nguyên ở những nơi khác trên thế giới vốn được giải quyết nhờ vào phán quyết của Tòa án quốc tế cũng như sự hỗ trợ của cơ quan trọng tài để rút ra bài học kinh nghiệm cho Biển Đông. Giáo sư Bec Strating thuộc Đại học La Trobe/Australia, nêu ra tranh chấp chủ quyền lãnh hải trên biển Timor cũng như tranh chấp dầu khí thuộc mỏ Greater Sunrise thuộc vùng biển này giữa Australia và Timor Leste.
Cũng như thái độ của Trung Quốc đối với Biển Đông, Canberra luôn từ chối tham gia bất cứ vụ kiện nào mà Dili kiện ra PCA về tranh chấp trên biển Timor. Tuy nhiên, Australia không thể bác bỏ việc hòa giải bắt buộc theo cơ chế giải quyết tranh chấp theo Phụ lục 5 của UNCLOS 1982. Theo yêu cầu của Timor Leste, tháng 04.2016, một ủy ban hòa giải của Liên Hợp Quốc đã được thành lập để xem xét tranh chấp và đưa ra những khuyến nghị (không mang tính ràng buộc đối với các bên) trong khoảng thời gian một năm. Ngay từ đầu, Australia đã thách thức thẩm quyền của ủy ban hòa giải này, nhưng sau khi bị bác bỏ, Canberra đã phải cùng ngồi vào bàn đàm phán với Timor Leste. Sau một số hành động xây dựng lòng tin, đến tháng 7.2017, hai nước đã đạt được bước đột phá. Theo đó, Timor Leste nhận được tới 70 – 80% thu nhập từ mỏ dầu Greater Sunrise ước tính có trị giá lên đến 40 tỷ USD. Điều này được cho là thắng lợi đối với Timor Leste.
Theo bà Strating, sở dĩ Timor Leste có được thắng lợi này bất chấp họ là một nước nhỏ hơn rất nhiều vì Australia lúc đó cần phải thể hiện quan điểm ủng hộ mạnh mẽ trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế trong bối cảnh có tranh chấp trên Biển Đông. Tuy nhiên, bà Strating cũng tỏ vẻ nghi ngờ liệu cơ chế tương tự có giúp giải quyết tranh chấp trên Biển Đông hay không vì tranh chấp trên Biển Đông phức tạp hơn nhiều với sự tham gia của nhiều nước, nhiều bên và sự tranh chấp không chỉ về dầu khí mà còn về chủ quyền đối với các đảo, bãi đá bên cạnh việc “quân sự hóa” của Trung Quốc. Một vấn đề nữa là Bắc Kinh không có động lực ủng hộ trật tự dựa trên luật pháp quốc tế như Canberra.
Thiếu tướng Hải quân Lalit Kapur, nghiên cứu cao cấp của Delhi Policy Group của Ấn Độ đã đem đến kinh nghiệm giải quyết tranh chấp giữa Ấn Độ và Bangladesh vốn dựa vào phán quyết của Tòa án quốc tế. Hai nước đã có tranh chấp về đường phân giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trên vịnh Bengal. Ông Kapur cho biết phán quyết của PCA mà cả hai nước đều chấp nhận và thực thi, đã dọn đường cho hai nước tăng cường hợp tác kinh tế và đạt được lợi ích trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, ông Kapur cho rằng, bối cảnh trên Biển Đông khó khăn hơn vì sự thiếu lòng tin nghiêm trọng giữa các bên trong khi Trung Quốc không chấp nhận các kênh đàm phán đa phương cũng như cơ chế pháp lý quốc tế để giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, hai nước Ấn Độ và Bangladesh không dùng con bài dân tộc chủ nghĩa để kích động tư tưởng dân tộc cực đoan trong nước trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ vốn rất nhạy cảm. Hơn nữa, Ấn Độ cũng không ỷ vào thế nước lớn trước Bangladesh để đòi hỏi về chủ quyền lãnh thổ.
Từ ba giải pháp nêu trên cho thấy, muốn chấm dứt tình trạng tranh chấp hết sức phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây căng thẳng, xung đột, làm nguy hại đến hòa bình, an ninh, sự ổn định của khu vực và thế giới, các bên liên quan cần phải thống nhất một số nội dung sau, cho dù những nội dung này đã nói nhiều nhưng vẫn là những vấn đề thời sự, cốt lõi để giải quyết tranh chấp ở Biển Đông:
Một là, thống nhất được cách giải thích và vận dụng các tiêu chuẩn để xác định phạm vi vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển ở xung quanh Biển Đông, như việc xác định hệ thống đường cơ sở ven bờ lục địa, ven bờ các hải đảo xa bờ, hệ thống đường cơ sở quốc gia quần đảo, các quần đảo không phải là quốc gia quần đảo; thống nhất các tiêu chuẩn để tính hiệu lực của các hải đảo trong việc hoạch định ranh giới biển, thềm lục địa…
Hai là, thống nhất được phạm vi biển, thềm lục địa chồng lấn được hình thành từ các yêu sách của các quốc gia ven biển theo đúng các tiêu chuẩn của UNCLOS 1982.
Ba là, thống nhất các tiêu chuẩn xác định phạm vi biển và thềm lục địa của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với tư cách là những quần đảo xa bờ, không phải là quốc gia quần đảo, các đảo ở đây có diện tích rất nhỏ, không thích hợp với đời sống con người, không có đời sống kinh tế riêng…
Bốn là, thống nhất nguyên tắc pháp lý và thực tiễn quốc tế áp dụng cho việc xác định quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo này.
Năm là, nếu yêu sách nào đưa ra không phù hợp với những tiêu chuẩn đã được thống nhất thì phải coi là vô giá trị, quốc gia nào đã đưa ra yêu sách đó phải từ bỏ nó với một tinh thần cầu thị, tôn trọng luật pháp và thực tiễn quốc tế, vì lợi ích hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và quốc tế.
Trong thực tiễn quốc tế, có không ít những tấm gương về trách nhiệm và tinh thần cầu thị của một số quốc gia khi tham gia đàm phán xác định ranh giới biển. Ví dụ: Trong đàm phán phân định vịnh Bắc Bộ, mặc dù đã từng chính thức nêu quan điểm rằng, trong vịnh Bắc Bộ có đường biên giới theo Công ước hoạch định biên giới được ký kết giữa Pháp và Nhà Thanh (Trung Quốc) năm 1887, đó là kinh tuyến 108 độ 03 phút 13 giây, nhưng Việt Nam đã chủ động từ bỏ yêu sách này vì sau khi sưu tầm, nghiên cứu thêm hồ sơ, tài liệu thì đã xác định rằng, đường biên giới đó chỉ là để phân chia chủ quyền các đảo ven bờ. Vì vậy, Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc đàm phán phân chia vịnh Bắc Bộ bằng con đường thỏa thuận thông qua thương lượng hữu nghị, trên cơ sở thực tiễn và luật pháp quốc tế, có tính đến hoàn cảnh hữu quan trong vịnh nhằm đi đến một giải pháp công bằng mà hai bên đều chấp nhận được. Kết quả là, ngày 25.12.2000, tại Bắc Kinh, hai nước đã ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở vịnh Bắc Bộ, kết thúc một quá trình đàm phán kéo dài 27 năm với ba vòng đàm phán chính thức. Trong Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc ngày 25.12.2000 đã nhấn mạnh: Việc hai nước ký Hiệp ước biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ có ý nghĩa lịch sử sâu rộng, sẽ thúc đẩy hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thế kỷ XXI.
Trong bối cảnh hiện nay, phương châm có thể áp dụng là trước hết, những bên có tranh chấp cần phải từ bỏ các yêu sách đơn phương thiếu căn cứ pháp lý về biên giới lãnh thổ ở Biển Đông, chẳng hạn như “đường chín đoạn” ôm lấy 80% diện tích Biển Đông mà phía Trung Quốc đã sử dụng dựa theo tờ bản đồ do quân đội Trung Hoa Dân quốc tự vẽ ra từ năm 1946; tiếp đến cùng nhau tìm được mẫu số chung, làm cơ sở pháp lý cho mọi diễn đàn giải quyết các tranh chấp có thể có trong thời gian tới theo các nội dung đã đề cập ở trên. Thực hiện được nội dung trên là điều không dễ dàng nên cần có lộ trình và biện pháp phù hợp. Trong bối cảnh hiện nay, các bên nên giữ nguyên hiện trạng, thúc đẩy nhanh COC, kiên trì đàm phán, không có các hành động làm phức tạp thêm tình hình; phát huy vai trò của các cơ chế song phương và đa phương, vai trò của các tổ chức trong khu vực và thế giới trong giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, chúng ta đã nếm trải cái giá mà nhân loại phải trả cho những tranh chấp vì lợi ích bất công và phi nghĩa của một số thế lực. Vì vậy, cần phải nhanh chóng cùng hành động vì một thế giới phát triển văn minh, hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Làm được như vậy thì dù có khó khăn, các bên vẫn tìm ra được giải pháp phù hợp trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông hiện nay.