Từ khía cạnh luật quốc tế, nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam là vi phạm luật pháp quốc tế. Hành động này của Trung Quốc là hành vi khiêu khích sự công nghiêm của luật pháp quốc tế.
Trung Quốc âm mưu hiện thực hóa “đường lưỡi bò”
Thực tế cho thấy với bất kỳ hành động nào trên Biển Đông, Trung Quốc luôn có mục đích: Ngắn hạn, mang tính chiến thuật hay lâu dài, mang tính chiến lược. Theo diễn biến vụ việc, có thể nhận định việc điều nhóm tàu Hải Dương 8 đến khu vực bãi Tư Chính thuộc EEZ và thềm lục địa của Việt Nam nằm trong chiến lược lâu dài của Trung Quốc là nhằm kiểm soát hoàn toàn tài nguyên trong yêu sách đơn phương “ường lưỡi bò” ở Biển Đông.Về pháp lý, Trung Quốc tìm cách tạo ra “sự đã rồi”, với sự hiện diện thường xuyên của các phương tiện tại khu vực này để buộc Việt Nam, quốc gia luôn chủ trương giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tránh đối đầu, xung đột, phải chấp nhận chủ trương “cùng khai thác” của Trung Quốc. Điều này đồng nghĩa với việc chấp nhận đây là vùng biển có tranh chấp, hoàn toàn có lợi cho Trung Quốc.Về kinh tế, Trung Quốc đang gây sức ép để buộc Việt Nam phải đình chỉ mọi hoạt động khai thác dầu khí ở khu vực vốn hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam theo quy định của UNCLOS. Các công ty nước ngoài đang khai thác dầu khí ở đây sẽ phải rút lui để tránh những rủi ro có thể xảy ra.
Bên cạnh đó, Bắc Kinh còn muốn làm mất giá trị phán quyết của Tòa Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII của quy định của UNCLOS 1982 về vụ kiện của Philippines đối với Trung Quốc liên quan đến biển Đông năm 2016. Một mưu đồ khác của Trung Quốc là tiếp tục áp đặt yêu sách phi lý “đường lưỡi bò”.Những hành động xâm phạm đến quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam bằng biện pháp đe dọa dẫn đến chiến tranh như vậy cho thấy tham vọng của Trung Quốc là luôn muốn chiếm Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế. Chính những hành động phi pháp như vậy đã phá hủy niềm tin về một Trung Quốc trỗi dậy hòa bình mà Bắc Kinh thường lớn tiếng. Ngoài ra, những hành động như vậy còn ngăn cản tiến trình thúc đẩy Bộ Quy tắc ứng xử tại biển Đông (COC) mà ASEAN và Trung Quốc đang nỗ lực xây dựng và nhất trí.
Trung Quốc coi thường luật quốc tế
Theo UNCLOS, các quốc gia có quyền chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên sinh vật hoặc không sinh vật tại vùng đặc quyền kinh tế của mình. Quốc gia có quyền tài phán về lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; về nghiên cứu khoa học biển; về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Tại vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền đặt dây cáp ngầm.Như vậy, các quốc gia khác không được tiến hành thăm dò, khảo sát tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cụ thể:
Đầu tiên, vị trí nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc hoạt động nằm hoàn toàn trong vùng biển của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của UNCLOS. Các hành vi thăm dò xảy ra ở vùng biển nằm cách bờ biển Việt Nam không quá 200 hải lý, không chồng lấn hoặc tranh chấp với bất kỳ quốc gia nào. Do đó, Trung Quốc không có cơ sở nào để có bất kỳ yêu sách gì đối với vùng biển này của Việt Nam.
Thứ hai, các thực thể trong khu vực quần đảo Trường Sa, theo phán quyết Trọng tài trong vụ Philippines – Trung Quốc, không thể có vùng biển rộng hơn 12 hải lý, do đó việc Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp các thực thể ở Trường Sa không thể tạo ra bất cứ cơ sở nào cho Trung Quốc yêu sách vùng biển nêu trên của Việt Nam. Hơn nữa, Trường Sa không phải quốc gia quần đảo nên không thể có đường cơ sở quần đảo.
Thứ ba, tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc rằng họ có chủ quyền với bãi san hô ngầm ở khu vực Nam Biển Đông này là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Theo quy định của luật biển quốc tế, những rạn san hô chìm ngầm dưới nước không phải là đối tượng yêu sách chủ quyền riêng rẽ. Trung Quốc cũng như không một quốc gia nào có thể yêu sách chủ quyền riêng rẽ với những bãi san hô ngầm ở khu vực này. Khu vực nào của những bãi này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt nam là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Việt Nam có quyền lắp đặt đảo nhân tạo, xây dựng công trình và thăm dò, khai thác tài nguyên tại đây vì đó là quyền chủ quyền của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình.
Việt Nam đang thực thi các biện pháp bảo vệ quyền chủ quyền
Việc nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc sử dụng các trang thiết bị và tiến hành thăm dò và khảo sát trong quá trình đi lại trong vùng đặc quyền kinh tế cho thấy dấu hiệu vi phạm quyền chủ quyền về thăm dò tài nguyên thiên nhiên tại vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.Trên thực địa, khi xảy ra tình huống như đã nêu ở trên, tàu chấp pháp của quốc gia ven biển có thể thực hiện các hành động lại gần giám sát, tìm hiểu rõ vấn đề, yêu cầu tàu khảo sát của Trung Quốc ngừng hoạt động thăm dò và rời khỏi vùng đặc quyền kinh tế của mình. Trong trường hợp đã yêu cầu nhưng không thực hiện, các tàu chấp pháp của quốc gia ven biển có thể tiếp cận gần hơn để thực hiện chức năng của mình, tiếp tục yêu cầu, không cho phép tàu khảo sát được tiếp tục thăm dò.Trong trường hợp cần thiết, nếu tàu khảo sát hoặc các tàu hộ tống của Trung Quốc có các hành vi cản trở, chống đối tàu chấp pháp của quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền tại vùng đặc quyền kinh tế thì các tàu chấp pháp được quyền thực hiện các biện pháp tương xứng để đáp trả nhằm mục đích tự vệ và thực hiện chức năng của mình. Tính đến thời điểm hiện tại, tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 thuộc quyền quản lý và sử dụng của chính phủ Trung Quốc, ngoài ra còn được hộ tống bởi các tàu Hải cảnh và tàu dân quân của Trung Quốc. Việc Trung Quốc dùng các tàu chấp pháp hoặc tàu cảnh sát biển, tàu dân quân để hộ tống vừa phù hợp với đặc thù vụ việc và trong trường hợp chủ động gây hấn ở những vùng mà Trung Quốc cố tình yêu sách ngược lại với các quy định của luật quốc tế thì họ ngang nhiên coi đó là hoạt động chấp pháp của họ.
Không những vậy, ngay từ khi Trung Quốc điều tàu hoạt động trái phép trong vùng biển của Việt Nam, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam. Đây là minh chứng cho thấy Việt Nam đã kiên trì trao đổi quan điểm với Trung Quốc, áp dụng biện pháp đàm phán theo quy định của luật quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Không những vậy, Phó Thủ tướng, Bộ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (7/2019) cũng đã nêu rõ, những hành động như vậy đe dọa nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia ven biển, làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng, không có lợi cho hòa bình và ổn định ở khu vực.
Theo giới chuyên gia, trước tình hình Trung Quốc tiếp tục có những hành vi xâm phạm vùng biển của Việt Nam hiện nay, Việt Nam cần phải duy trì chính sách giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, thông qua con đường ngoại giao và kêu gọi sự lên tiếng của cộng đồng quốc tế. Điều này cũng có những lý do.
Thứ nhất, giải quyết bằng biện pháp hòa bình phù hợp với yêu cầu của luật pháp quốc tế bao gồm Hiến chương cũng như các văn bản pháp luật khác của Liên Hiệp Quốc. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
Thứ hai, Việt Nam rất cần duy trì nền hòa bình để phát triển đất nước, tránh để rơi vào tình trạng chiến tranh như trước. Tuy nhiên, tránh chiến tranh không có nghĩa sẽ không tự vệ khi bị xâm lược. Cần lưu ý bài học sử dụng biện pháp dân sự cần thiết để ngăn không cho Trung Quốc lặp lại như trường hợp bãi cạn Scarborough năm 2012. Theo đó, Việt Nam cần duy trì và tăng cường sự xuất hiện của lực lượng chấp pháp biển bao gồm cảnh sát biển, kiểm ngư để ngăn chặn các hành vi sai trái của các tàu Trung Quốc. Mặt khác, Việt Nam cần tranh thủ sự lên tiếng của cộng đồng quốc tế. Muốn vậy, công tác truyền thông về sự kiện này cần được thực hiện hiệu quả, bài bản và liên tục thì quốc tế mới chú ý và lên tiếng trong trường hợp này.