Sunday, November 24, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaLợi ích và trách nhiệm đối với ASEAN trong giải quyết tranh...

Lợi ích và trách nhiệm đối với ASEAN trong giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông

Tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông giữa Trung Quốc với các nước ASEAN và giữa một số nước ASEAN với nhau diễn ra mấy chục năm nay và gần đây có những diễn biến ngày càng phức tạp hơn, nguy cơ xảy ra xung đột quân sự, đe dọa đến duy trì an ninh, hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực, đe dọa cuộc sống người dân các nước, trước hết là các nước ASEAN và sau đó là châu Á – Thái Bình Dương. Tình hình trên đã buộc ASEAN phải nỗ lực, chủ động hành động ngăn chặn, nhưng dường như các nước trong tổ chức này có một bộ phận chưa nhận thức hết lợi ích và trách nhiệm của mình trong tham gia giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông nên tính tích cực chưa được phát huy hết, thậm chí có nước vì tầm nhìn thiển cận, chạy theo lợi ích dân tộc hẹp hòi còn có những hành động “ngãng ra” hoặc “gây khó” cho tiến trình giải quyết tranh chấp, nhất là tranh chấp giữa ASEAN với Trung Quốc.

Như đã biết, trong số 5 nước 6 bên, gồm Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan có yêu sách chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở Biển Đông, thì có 4 nước ASEAN là: Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei có tranh chấp trực tiếp tại vùng biển này. Các nước trên đương nhiên có lợi ích khá lớn và toàn diện trong khai thác chủ quyền lãnh thổ đối với Biển Đông để phát triển và phòng thủ quốc gia. Các nước khác còn lại của ASEAN, có 5 nước là Singgaporre, Thái Lan, Indonesia và Campuchia cũng là những nước nằm trên bờ Biển Đông, đều chia sẻ lợi ích to lớn cả về kinh tế và chiến lược từ vùng biển này, nhất là trong tự do thương mại và an ninh quốc phòng. Hai nước nữa không nằm trên bờ Biển Đông là Myanmar và Lào nhưng cũng không phải không có lợi ích gì từ vùng biển này vì đây là con đường thông thương hàng hải thuận lợi nhất cho hai nước này trong phát triển quan hệ với các nước trên bờ Thái Bình Dương. Khi tuyến hành lang kinh tế Đông Tây thuộc Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng trở nên thuận tiện, thì lợi ích của Myanmar và Lào còn được nhân lên gấp nhiều lần nhờ sử dụng lợi thế chiến lược của Biển Đông. Nói như vậy để thấy, ở mặt phát triển kinh tế, hầu hết các nước ASEAN đều có lợi ích từ Biển Đông.

Về chính trị, lợi ích lớn nhất của ASEAN sau khi khối này đã xây dựng thành công Cộng đồng An ninh – Chính trị (APSC) vào năm 2015 và đưa những nội dung hoạt động của cộng đồng đi vào thực chất là hướng đến tầm nhìn ASEAN, xây dựng ASEAN tiến tới là một tổ chức khu vực thống nhất trong đa dạng, có vai trò trung tâm tại khu vực. Những nội dung và phương thức xây dựng APSC như “Xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử”; hợp tác, tìm kiếm và thiết lập các định chế để “Ngăn ngừa xung đột” trong ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài được xác định rõ trong Kế hoạch hành động Tổng thể năm 2004 và trong Kế hoạch Tổng thể APSC năm 2009. Như vậy, việc tham gia hòa giải mâu thuẫn, tạo lập các cơ chế để củng cố lòng tin, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi của ASEAN. Hơn nữa, việc tham gia này còn giúp ASEAN duy trì và củng cố vai trò trung tâm, động lực thúc đẩy, kết nối kiến tạo các cơ chế hợp tác đa phương của mình ở Châu Á – Thái Bình Dương, nhất là nâng cao vai trò của ASEAN trong Diễn đàn An ninh Khu vực (ARF), Diễn đàn Đông Á (EAS) và Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+). Điều này sẽ làm tăng sức đề kháng của ASEAN và các nước thành viên trước sức ép gia tăng của cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn, trước hết giữa Mỹ và Trung Quốc; đồng thời cũng làm tăng sức hút, lực hấp dẫn và tính hiệu quả của ASEAN và các nước thành viên trong mở rộng hợp tác với các đối tác bên ngoài, đưa vị thế của ASEAN lên tầm cao mới, nhân tố không thể thiếu trong kiến tạo môi trường hòa bình, cơ chế hợp tác đa phương ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Về an ninh, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông leo thang có thể dẫn tới xung đột không chỉ đe dọa lợi ích quốc gia, dân tộc của 4 nước ASEAN có chủ quyền ở vùng biển này, mà còn làm xấu đi môi trường hợp tác và phát triển của cả ASEAN, nhất là quan hệ của ASEAN và các nước thành viên với các đối tác bên ngoài, trước hết là đối với Trung Quốc. Các nước Đông Nam Á, nhất là các nước có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, dù muốn hay không, vẫn phải giành ngân sách lo đầu tư, chi phí nhiều hơn cho quốc phòng, quân sự để “đề phòng sự cố”, các nước láng giềng không có yêu sách chủ quyền cũng không dám để cho “nước chảy bèo trôi” vì “trâu bò đánh nhau, ruồi muỗi khó thoát”. Điều này đã không chỉ làm tổn hại đến đầu tư phát triển kinh tế của cả khu vực, mà còn làm tăng mối nghi kỵ, lo ngại về an ninh do xu hướng chạy đua vũ trang gia tăng nhanh chóng.

Tiếp cận vấn đề từ 3 khía cạnh kinh tế, chính trị và an ninh như trên cho thấy sự tham gia của ASEAN vào hóa giải mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông cùng một lúc đạt được các mục đích: (1) Góp phần quan trọng hiện thực hóa tầm nhìn ASEAN; (2) Tránh cho ASEAN và các nước thành viên rơi vào vòng xoáy hay tâm điểm của cạnh tranh địa chính trị của các cường quốc; (3) Duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong một cấu trúc khu vực mới đang định hình. Ở tầm chiến lược, sự tham gia trong giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông của ASEAN còn góp phần làm cho các nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc giảm cạnh tranh, cọ sát lợi ích ở khu vực này, làm cho phần hợp tác cùng chia sẻ lợi ích giữa họ tăng lên. Điều này, góp phần củng cố môi trường hợp tác và an ninh khu vực, trong đó chủ quyền quốc gia, dân tộc của các thành viên ASEAN sẽ được tôn trọng, không bị các nước lớn xem nhẹ mà đẩy vào vòng xoáy của cạnh tranh quyền lực.

Vì vậy, có thể nói, sự tham gia giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đối với ASEAN vừa là trách nhiệm, vừa là lợi ích chiến lược của tổ chức này. Đây cũng là phép thử mới đối với tiến trình hiện thực hóa vai trò trung tâm của ASSEAN cũng như đối với chiến lược tranh giành kiểm soát địa chính trị tại khu vực này giữa các nước lớn, trước hết là giữa Mỹ và Trung Quốc.

Giá như tất cả các nước thành viên ASEAN đều thống nhất nhận thấy lợi ích và tầm quan trọng của việc giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông như trên thì có lẽ quá trình giải quyết vấn đề Biển Đông với Trung Quốc đã không kéo dài đến tận hôm nay và nhiều năm nữa. Bởi trên thực tế những năm gần đây, sự thiếu đoàn kết, nhất trí về một lập trường chung và phản ứng cầm chừng của ASEAN và một số nước thành viên trong việc thực thi các thỏa thuận đã ký kết ở cấp độ khu vực và toàn cầu liên quan đến Biển Đông đã làm chậm tiến trình đàm phán và ký Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), cũng như gián tiếp “tạo dư địa” cho Trung Quốc mạnh tay hơn trong yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông. Đơn cử như việc Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 45 tại Campuchia năm 2012 đã không ra được Tuyên bố chung có liên quan đến vấn đề Biển Đông; tiếp theo là sự trì hoãn từ phía Trung Quốc trong việc đàm phán COC cũng như phản ứng chưa đủ mạnh, còn khá chung chung của ASEAN về hành động hạ đặt trái phép giàn khoan của Trung Quốc tại Biển Đông năm 2014. Mới nhất gần đây là Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 52 tại Thailand (31/07/2019) có ra Tuyên bố chung về vấn đề Biển Đông nhưng cũng không dám lên án chỉ đích danh Trung Quốc trong một loạt hành động gây hấn tại Biển Đông đối với 3 nước Việt Nam, Philippines, Malaysia. Những ví dụ trên đang đặt ra những thách thức lớn đối với việc thực hiện DOC cũng như báo hiệu về một tương lai khó dự đoán để có một COC thực chất. Có thể nói, sự thiếu thống nhất trong ASEAN do tác động của chính sách “chia để trị” từ Trung Quốc vì mục tiêu, tham vọng địa chính trị của họ cũng như sự khác nhau về lợi ích của các bên liên quan đến Biển Đông có khả năng làm suy yếu vai trò trung tâm của ASEAN trong ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông.

Vấn đề đặt ra hiện nay và những năm sắp tới là ASEAN cần phải có trách nhiệm và chủ động hơn nữa trong ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông. ASEAN hơn lúc nào hết phải có quyết tâm, ý chí và trách nhiệm chính trị cao để sớm có COC, trong đó có các quy định chặt chẽ, cụ thể mang tính ràng buộc về mặt pháp lý. Để đạt được mục tiêu này, ASEAN cần phải có các bước đi sau:

Trước hết về mặt nhận thức và chủ trương, ASEAN hơn lúc nào hết phải coi việc tham gia giải quyết tranh chấp ở Biển Đông là nhiệm vụ chính trị to lớn và là lợi ích mang tầm chiến lược của Hiệp hội. Nói cách khác, sự gắn kết số phận của từng nước thành viên ASEAN và việc khẳng định giá trị, chỗ đứng của ASEAN với tư cách là một Cộng đồng khu vực trong bối cảnh phức tạp hiện nay phụ thuộc sâu sắc vào tính hiệu quả của ASEAN trong việc tạo dựng các định chế có khả năng ngăn ngừa và quản lý xung đột đang leo thang ở Biển Đông. Đây cũng là thử thách có tính bước ngoặt đối với sự tồn tại và phát triển của cộng đồng này trong những năm sắp tới. ASEAN và các nước thành viên không được mơ hồ về điều này. Cùng với việc tác động, gây sức ép, yêu cầu Trung Quốc đàm phán thực chất về COC, các nước ASEAN có yêu sách chủ quyền cần tiếp tục tìm kiếm điểm đồng, đi đến thống nhất lập trường chung và vận động các nước ASEAN khác cùng hành động vì một COC thực chất và hiệu quả.

Các nước ASEAN cũng cần chủ động đề xuất các sáng kiến mới kiểu giống như Philippin đề xuất năm 2011 về “khu vực hòa bình, tự do, hữu nghị và hợp tác ASEAN – Trung Quốc ở Biển Đông” hay kiểu “Ủy hội hợp tác phát triển hòa bình và an ninh Biển Đông” giống như “Ủy hội sông Mê Công” mà các nước thuộc tiểu vùng sông Mê Công đã ký từ năm 1995. Bên cạnh đó, ASEAN cũng nên lập cơ chế “Cảnh sát biển chung của các nước ASEAN có yêu sách đòi chủ quyền ở Biển Đông”, sau đó là “Cảnh sát biển ASEAN”, cùng với Trung Quốc lập nên cơ chế “cảnh sát biển ASEAN – Trung Quốc” trên Biển Đông. Ngoài ra, các nước ASEAN cũng nên mạnh dạn đề xuất lập nên “Hiệp ước Hàng hải Đông Nam Á” như theo gợi ý của giáo sư Carlyle A. Thayer. Theo ông này, Hiệp ước sẽ gắn kết toàn bộ các nước ASEAN vào vấn đề an ninh trên biển. Các nước có yêu sách đòi chủ quyền sẽ được độc lập nhiều hơn, ít hoặc không bị lệ thuộc vào vấn đề thống nhất quan điểm của ASEAN. Bên cạnh đó, Hiệp ước Hàng hải ASEAN là một công cụ, phương tiện hữu hiệu làm cho các nước ASEAN gắn kết với nhau hơn về hợp tác an ninh trên tất cả các vùng biển ở Đông Nam Á và như vậy sẽ khắc phục được tình trạng phân cách hay chia rẽ hiện nay giữa các nước ASEAN có tranh chấp và không tranh chấp tại Biển Đông, nhất là trong việc đàm phán với Trung Quốc về một COC.

          Các nước ASEAN nên thông qua một văn bản có tính ràng buộc, yêu cầu nước Chủ tịch luân phiên ASEAN hàng năm đưa vấn đề Biển Đông vào chương trình nghị sự chính thức của các cơ chế hợp tác Cấp cao ASEAN, AMM, ADMM, ADMM+, ARF, EAS để thúc đẩy thực thi DOC và nhanh chóng có được một COC. Hơn lúc nào hết, ASEAN cần đưa ra những quyết sách và hành động chính trị kịp thời, thúc đẩy tiến trình COC về phía trước. Đây là phép thử mới chứng minh tính hiệu quả và mầu nhiệm của ASEAN trên con đường tiến tới cộng đồng khu vực cũng như trở thành trung tâm hòa giải mâu thuẫn, ngăn ngừa thảm họa địa chính trị ở khu vực Đông Nam Á.

RELATED ARTICLES

Tin mới