Trả lời về việc tàu khảo sát Địa chất Hải Dương 8 quay lại vùng biển Việt Nam tại họp báo thường kỳ ngày 19/8/2019, trước thông tin Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 16/8/2019 đã lên tiếng phản đối, yêu cầu Trung Quốc rút tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam và Việt Nam sẽ căn cứ theo luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế, tiếp tục có biện pháp thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Cảnh Sảng, khẳng định: Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo “Nam Sa”( Trường Sa) và các vùng biển phụ cận, có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển liên quan. Tàu thuyền tác nghiệp của TQ luôn tác nghiệp trong vùng biển thuộc quyền tài phán của TQ. Trong quá trình đó, tàu thuyền tác nghiệp căn cứ vào tình hình biển và nhu cầu thực tế điều chỉnh hợp lý kế hoạch tác nghiệp. Hy vọng các quốc gia liên quan thiết thực tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của TQ và cùng với TQ duy trì an ninh hài hoà tại vùng biển liên quan.
Giới báo chí đã quá quen với nội dung trả lời này của phía Trung Quốc kể từ khi nhóm tàu khảo sát địa chất HD 08, cùng với sự hộ tống của một lực lượng tàu vũ trang, bán vũ trang hùng hậu, bao gồm các tàu Hải cảnh, tàu đánh cá có vũ trang, tàu Hải quân, được bố trí vòng trong, vòng ngoài, bài bản, lớp lang, triển khai các hoạt động bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Tuy nhiên, nội dung được coi là lập trường của Trung Quốc về “sự kiện Tư Chính” không phải ai cũng có thể dễ dàng nhận ra được sự thật đúng sai của nó.
Để góp phần làm sáng tỏ bản chất của lập trường nói trên, chúng tôi xin tập trung bình luận, phân tích một số nội dung chủ yếu sau đây:
1. Quần đảo Trường Sa, cũng như quần đảo Hoàng Sa là 2 quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình ở 2 quần đảo này từ khi chúng còn là đất vô chủ (res-nullius), chí ít là từ thế kỷ VII. Việc chiếm hữu này là thật sự, rõ ràng, liên tục và hoà bình; phù hợp với nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ hiện hành, nguyên tắc chiếm hữu thật sự.
Trong khi đó, phía Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm và tạo ra tình trạng tranh chấp chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa vào những năm 1909, 1956, 1974 và một số thực thể ở quần đảo Trường Sa năm 1946, 1950 (Trung Hoa Dân Quốc) và năm 1988 ( CHND Trung Hoa). Để biện minh cho sự xâm chiếm bằng vũ lực đó, phía Trung Quốc lập luận rằng Trung Quốc có “chủ quyền lịch sử” đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Tổ tiên người Trung Hoa từ hàng ngàn năm nay trong lịch sử đã phát hiện, khai phá, chiếm hữu, thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo này. Nhưng lập luận này không phù hợp với nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ theo Luật pháp và Thực tiễn quốc tế hiện hành và đã bị các học giả quốc tế phê phán, bác bỏ. Mặc dù Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách, viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lich sử” của Trung Quốc đối với “ Tây Sa” và “Nam Sa”… Nhưng, theo nhận xét của giáo sư người Trung Quốc Lý Lệnh Hoa thì “chứng cứ đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực sự. Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta không có được điều đó.”
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: “người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết rằng ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác, nhưng điều đó không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khám phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này”…
2. Bãi cạn Tư Chính có phải là bộ phận cấu thành của “Nam Sa quần đảo” (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam) không? Và,“Vùng biển kế cận”, “Vùng biển liên quan” của “Nam Sa quần đảo” được đề cập trong tuyên bố nói trên là vùng biển nào? Liệu có phù hợp với UNCLOS 1982 không? Lập luận của Trung Quốc xuất phát từ cơ sở nào, đúng hay sai khi đối chiếu với UNCLOS 1982?
Mọi người đều biết rằng Trung Quốc là một trong những quốc gia đầu tiên ký kết và phê chuẩn UNCLOS 1982, hơn nữa là một trong những thành viên tích cực của nhóm quốc gia đang phát triển, đã có nhiều đóng góp trong quá trình tham gia Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3. Tuy nhiên, để thực hiện chủ trương độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông làm bàn đạp vươn lên tranh giành vị trí siêu cường quốc tế trong cuộc tranh chấp địa-chính trị, địa- kinh tế, địa- chiến lược với Hoa Kỳ, Trung Quốc đã triển khai các hoạt động vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông, cũng như các quốc gia ngoài khu vực có quyền và lợi ích liên quan khác, bất chấp Luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS1982; chẳng hạn, Trung Quốc tiếp tục duy trì yêu sách “đường lưỡi bò” bao lấy trên 90% diện tích Biển Đông và tìm cách hợp thức hóa yêu sách phi lý này bằng lập luận ngụy biện rằng:
– Đây là biên giới biển do lịch sử để lại, xuất hiện trước khi UNCLOS 1982 có hiệu lực, vì vậy nó không chịu tác động bởi UNCLOS 1982;
-Trung Quốc có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở vùng biển nằm trong đường biên giới này;
– Hơn nữa, Trung Quốc có chủ quyền đối với “Tứ Sa” ở giữa Biển Đông ( bao gồm Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam), Nam Sa ( tức Trường Sa của Việt Nam), Đông Sa ( Pratas) và Trung Sa (vùng bãi cạn Macclesfield); vì vậy, “theo UNCLOS1982”, Trung Quốc có quyền mở rộng phạm vi các “vùng biển có liên quan” của Tứ Sa ra đến biên giới biển theo đường chữ U.
Lập luận nói trên của Trung Quốc, nếu theo thuật ngữ pháp lý, thì có thể được gọi là sự “giải thích và áp dung” quy định của UNCLOS 1982. Nhưng, sự “giải thích và áp dụng” này là hoàn toàn sai trái, là ngụy biện mà nhiều người cho rằng Trung Quốc đang muốn viết lại Luật Biển quốc tế có lợi cho họ. Chúng tôi xin vạch rõ tính ngụy biện trong cách “giải thích và áp dụng” UNCLOS1982 của Trung Quốc như sau:
Theo UNCLOS 1982, một quốc gia khi đã trở thành thành viên chính thức thì phải tuyệt đối tuân thủ và phải sửa đổi tất cả các quy định đã ban hành trước khi có Công ước, nếu chúng không phù hợp với các quy định của Công ước. Nếu không hủy bỏ và sửa đổi thì sẽ không có hiệu lực thi hành đối với các quốc gia thành viên khác. “Các quốc gia thành viên” (Etats Parties) là những quốc gia đã chấp nhận sự ràng buộc của Công ước và Công ước có hiệu lực đối với các quốc gia đó, và “Công ước được áp dụng mulatis mutandis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho những thực thể nói trong Điều 305 khoản 1, điểm b, c, d, e và f đã trở thành thành viên của Công ước, theo đúng với các điều kiện liên quan đến từng thực thể; trong giới hạn đó, thuật ngữ “quốc gia thành viên” cũng dùng để chỉ những thực thể này.”
Trong quá trình tiến hành Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3, các đoàn đại biểu đã thảo luận về việc có nên đưa khái niệm “quyền lịch sử” đối với các tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế không, cuối cùng khái niệm này đã bị gạt ra khỏi các quy định tại Phần V, từ Điều 55 đến Điều 75. Trong Phán quyết của Tòa Trọng tài vụ Philipines kiên Trung Quốc về vấn đề Biển Đông 12/7/2016, đã bác bỏ “quyền lịch sử đối với tài nguyên” trong vùng biển đường “lưỡi bò” của Trung Quốc. Vậy thì, “Vùng biển kế cận”, “Vùng biển liên quan” của “Nam Sa quần đảo” được đề cập trong tuyên bố nói trên là vùng biển nào? Liệu có phù hợp với UNCLOS1982 không? Đây là nội dung liên quan đến hiệu lực của các thực thể địa lý ở giữa Biển Đông trong việc xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa.
Trung Quốc đã tuyên bố hệ thống đường cơ sở thẳng tại quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam) năm 1998, vận dụng theo phương pháp thiết lập hệ thống đường cơ sở quốc gia quần đảo.
Theo Phần IV của UNCLOS 1982, không có Điều khoản nào quy định phương pháp vạch đường cơ sở quần đảo khi không phải là quốc gia quần đảo. Vì vậy, quốc gia lục địa có chủ quyền phải vạch đường cơ sở để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa cho từng thực thể địa lý đó. Như vậy, Trung Quốc đã giải thích và áp dụng sai các quy định của Phần IV, UNCLOS1982 trong việc xác lập hệ thống đường cơ sở đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trung Quốc cũng đang tính đến việc xác lập hệ thống đường có sở ở quần đảo Trường Sa mà họ gọi là Nam Sa, sau khi họ đã chiếm đóng được tại các thực thể là các bãi cạn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và trên thềm lục địa của các quốc gia xung quanh Biển Đông.
Từ cách xác lập hệ thống đường cơ sở sai trái đó, Trung Quốc khẳng định họ có quyền xác định các “vùng biển liên quan” của các quần đảo ở giữa Biển Đông có chiều rộng đến 200 hải lý. Đây là một sai phạm tiếp theo sai phạm nói trên. Bởi vì, theo quy định của UNCLOS 1982, tại Phần VIII, Điều 121 quy định: 1. “Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước”. 2. “Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác” 3. “Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.”. Theo Hội đồng Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII để xử vụ Philippines kiện Trung Quốc năm 2016 , nếu căn cứ vào nguồn gốc của các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, thì tất các đảo ở đây rất nhỏ bé, không thích hợp cho đời sống của cộng đồng dân cư và không có đời sông kinh tế riêng nên chỉ có thể có vùng lãnh hải tối đa 12 hải lý. Như vậy, các bãi cạn ở cách bờ biển của các quốc gia ven Biển Đông không quá 200 hải lý không phải là bộ phận của quần đảo Trường Sa; bởi vì chúng là những bãi ngầm, bãi cạn ở xa và bị ngăn cách quần đảo này bởi các rảnh sâu, không thể tạo thành một thể thống nhất về địa lý, địa chất, không gắn kết về kinh tế, lịch sử để tạo thành một thể thống nhất của quần đảo. Theo đó, bãi Tư Chính không thể là một bộ phận của quần đảo Trường Sa và vùng biển bãi Tư Chính không được coi là “vùng biển liên quan” của quần đảo này.