Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad (18/9) đã công bố “Khung hướng dẫn” mới đối với chính sách đối ngoại của Malaysia, nhấn mạnh về cơ bản, Biển Đông phải là một vùng biển hợp tác, kết nối và xây dựng cộng đồng, không phải là nơi đối đầu hay xung đột.
Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad cho biết, trong khi các yếu tố cơ bản trong chính sách đối ngoại của Malaysia vẫn không thay đổi thì cách tiếp cận của Malaysia đối với các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích trong nước sẽ thay đổi. Khung hướng dẫn với chủ đề “Thay đổi liên tục” cho thấy quan điểm rõ nét của Malaysia là duy trì quan hệ hữu nghị với tất cả các nước và tìm cách giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế nhưng nước này cũng bảo lưu quyền bày tỏ ý kiến của mình và cũng giống như cam kết của bất kỳ quốc gia nào, khi cần, Malaysia sẽ phản ứng chống lại sự bất công, áp bức và các tội ác khác chống lại loài người.
Liên quan vấn đề Biển Đông, Tài liệu cho biết, Thủ tướng Mahathir đã đề xuất phi quân sự hóa tuyến đường hàng hải đang có tranh chấp gay gắt này và biến nó thành một khu vực hòa bình hữu nghị và thịnh vượng. Tài liệu trên cập nhật chính sách đối ngoại của Malaysia nhấn mạnh, về cơ bản, Biển Đông phải là một vùng biển hợp tác, kết nối và xây dựng cộng đồng, không phải là nơi đối đầu hay xung đột. Điều này phù hợp với tinh thần của Tuyên bố về Khu vực Hòa bình, Tự do và Trung lập (ZOPFAN). Khung khuôn khổ cũng cho biết Malaysia sẽ tích cực thúc đẩy tầm nhìn này ở ASEAN. Tuyên bố về Khu vực Hòa bình, Tự do và Trung lập (ZOPFAN) khẳng định quyết tâm giữ khu vực trung lập, không chịu bất kỳ sự can thiệp nào của các cường quốc bên ngoài đã được Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore ký kết vào năm 1971.
Trong tài liệu mới, Malaysia còn nhấn mạnh mối đe dọa an ninh từ những tuyên bố chủ quyền chồng lấn ở Biển Đông “đã được kiểm soát tốt và quản lý hiệu quả về mặt ngoại giao”, nhưng cảnh báo “có vài điểm nóng có thể gây ra khủng hoảng hoặc chiến tranh nếu không được xử lý một cách hợp lý”. Cũng theo tài liệu mới, chính phủ Malaysia vẫn giữ lập trường không đứng về phía nào đối với các nước lớn và sẽ duy trì quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, tìm kiếm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế.
Tài liệu cũng cho biết, “Malaysia mới” sẽ có nhiều tiếng nói hơn về quyền của các quốc gia nhỏ và kém phát triển hơn ở phía Nam và Malaysia cũng dự định sửa đổi các chương trình hỗ trợ hiện tại để tối ưu hóa toàn bộ tiềm năng của các nước này; nhấn mạnh rằng Malaysia tìm kiếm các mối quan hệ cùng có lợi giữa các quốc gia, kể cả các cường quốc và sẽ hợp tác với tất cả các nước có chung cách tiếp cận để đảm bảo các quốc gia có thể tham gia trên cơ sở bình đẳng mà không phải chịu áp lực từ bất kỳ cường quốc nào.
Ngay sau khi Malaysia công bố Tài liệu trên, giới chuyên gia, học giả và truyền thông khu vực, quốc tế nhận định Malaysia sẽ tích cực thúc đẩy tầm nhìn này ở ASEAN; Malaysia sẽ không liên minh với bên này để chống lại bên kia; không chấp nhận sự can thiệp quân sự bất hợp pháp, gây căng thẳng từ bên ngoài vào Biển Đông; thúc đẩy hợp tác đa phương, thu hút các quốc gia đến biển Đông vì mục tiêu hòa bình như thương mại. Giới chuyên gia cho rằng các thông điệp này không chỉ phù hợp với lập trường chung của ASEAN mà còn rất sát với các quan điểm của Việt Nam thời gian qua. Rõ ràng nhất là thông qua các tuyên bố của Việt Nam trước sự kiện tàu địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc nhiều lần xâm phạm trái phép vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam gần đây, cụ thể: (1) Dù đối mặt sức ép và sự đe dọa từ Bắc Kinh ở Biển Đông thời gian qua nhưng Việt Nam tiếp tục duy trì chính sách “ba không”: Không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. (2) Việt Nam nhiều lần khẳng định kịch liệt phản đối hành động quân sự của Trung Quốc hay bất kỳ nước nào trái luật pháp quốc tế, điển hình là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982. Đối với tất cả hành vi quân sự hóa hay can dự quân sự trái phép, điển hình như Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo, huấn luyện quân sự trái phép ở Hoàng Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam), Bộ Ngoại giao Việt Nam luôn lên tiếng phản đối, tiến hành giao thiệp và trao công hàm cương quyết phản đối cách hành xử không “thượng tôn pháp luật”. (3) Việt Nam nhiều lần tuyên bố chào đón và sẵn sàng hợp tác với các nước khác cũng như cộng đồng quốc tế nhằm duy trì hòa bình, ổn định và an ninh trong khu vực biển Đông.
Trước đây, Malaysia có truyền thống áp dụng cách tiếp cận “giữ an toàn” ở Biển Đông vừa để bảo vệ yêu sách của nước này vừa để duy trì mối quan hệ song phương quan trọng với Trung Quốc. Trong giai đoạn cầm quyền, chính quyền của cựu Thủ tướng Malaysia Najib Razak duy trì chính sách “không đối đầu, không gây chuyện”, cố gắng tránh xung đột bên ngoài, đặc biệt là xung đột quân sự; ưu tiên việc sử dụng biện pháp chính trị để đảm bảo duy trì lợi ích ở Biển Đông; chủ trương của Malaysia có phần ủng hộ, ngả theo Trung Quốc, song Malaysia cũng tăng cường hợp tác quân sự với các nước trong khu vực và Mỹ. Malaysia cũng đã lựa chọn biện pháp an ninh và chính trị mang tính phòng bị đối với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Chủ yếu bao gồm 3 phương diện: (1) Tăng cường bố trí quân sự, đẩy nhanh nâng cao sức mạnh hải quân; (2) Tăng cường hợp tác an ninh quân sự với thế lực ngoài khu vực chủ yếu là Mỹ, lợi dụng tối đa sự hoài nghi chiến lược lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ, để Mỹ cân bằng sức mạnh quân sự và tầm ảnh hưởng khu vực không ngừng tăng lên của Trung Quốc, đạt được mục đích duy trì thế cân bằng ở khu vực Biển Đông; (3) Nỗ lực thúc đẩy ký kết “Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông” (COC), đẩy mạnh hợp tác và liên kết với Philippines, Việt Nam, thúc đẩy đoàn kết nội bộ ASEAN, làm suy yếu ưu thế của lực lượng biển Trung Quốc tại khu vực Biển Đông.
Từ khi Thủ tướng Mahathir Mohamad lên cầm quyền, Malaysia đã có bước điều chỉnh chiến lược về vấn đề Biển Đông. Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad cho rằng Biển Đông nên là một vùng biển hợp tác, kết nối và xây dựng cộng đồng, không phải là nơi đối đầu hay xung đột; Không phải đe dọa quân sự mà tham vấn ngoại giao mới là chìa khóa để xử lý và giải quyết bất cứ tranh chấp liên quốc gia nào ở Đông Á cũng như những nơi khác; Tất cả các nước, dù lớn hay nhỏ, đều được hoan nghênh đóng vai trò xây dựng trong một cộng đồng Đông Á rộng mở thông qua sự hội nhập và tạo thành thị trường lớn hơn, nhưng lợi ích của các nước yếu hơn phải được tôn trọng, bảo vệ và hoàn thiện. Do đó, ông Mahathir Mohamad thúc đẩy chính sách Biển Đông trên một số khía cạnh: (1) Bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của Malaysia ở Biển Đông; (2) Thúc đẩy phối hợp với các nước liên quan tranh chấp chủ quyền trong khu vực và kêu gọi ASEAN đóng vai trò dẫn dắt và chủ động trong việc xử lý mọi tình huống trên Biển Đông. (3) Tìm cách thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các nước lớn trong cả lĩnh vực chiến lược và kinh tế. Điều này được thể hiện bằng việc Malaysia cam kết duy trì sự trung lập và kêu gọi sự tham gia của tất cả các tác nhân, đồng thời nhấn mạnh vai trò của việc tham vấn, củng cố vai trò trung tâm của ASEAN cũng như mở rộng chủ nghĩa đa phương của tổ chức khu vực này trên nhiều tầng nấc. (4) Tăng cường hợp tác, giao lưu hải quân với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm thúc đẩy sự tin cậy chính trị, nâng cao năng lực hải quân và khả năng ứng phó với những tình huống đột xuất trên biển. (5) Tìm cách ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông.
Nhìn chung, dưới thời chính quyền Thủ tướng Mahathir Mohamad, Malaysia đã có sự điều chỉnh chính sách mang tính cứng rắn, cương quyết hơn trong vấn đề Biển Đông. Một mặt, Malaysia sẽ tăng cường hợp tác với các nước nhằm bảo vệ chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông. Mặt khác, Malaysia sẽ giảm bớt sự lệ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và từng bước ngăn chặn, lên án những hành động phi pháp của Bắc Kinh trong khu vực.