Trong những năm gần đây, Trung Quốc liên tục sử dụng nhiều chiêu trò đánh lừa cộng đồng quốc tế rằng Bắc Kinh muốn độc chiếm Biển Đông nhằm phục vụ các lợi ích kinh tế như dầu khí, đánh bắt cá, bảo vệ môi trường… Nhưng đây có thể chỉ là những lý do bề mặt nhằm che giấu những ý định và lợi ích sâu xa của Trung Quốc.
Âm mưu chiến lược của Trung Quốc trên Biển Đông:
Theo nhận định, đánh giá của giới chuyên gia, học giả, Trung Quốc tìm mọi cách để chiếm quyền kiểm soát Biển Đông nhằm phục vụ âm mưu: (i) Trung Quốc tìm cách đảm bảo tự do hàng hải trên Biển Đông cho lực lượng hải quân, đặc biệt là lực lượng tàu ngầm chiến lược và tàu sân bay. Đây là lý do chính của việc Trung Quốc nhất quyết muốn biến Biển Đông thành một khu vực bất khả xâm phạm nhằm thực hiện những mưu đồ chiến lược quân sự của Bắc Kinh.(ii) Biến Đài Loan thành vùng lãnh hải thực sự tự do hoàn toàn để tàu bè Trung Quốc có thể tự do tiến ra biển khơi, ít nhất là trong thời bình, hoặc trong các cuộc khủng hoảng cấp thấp, xa hơn nữa là trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh thứ hai có vẻ như đã bắt đầu hình thành. (iii) Bố trí tàu ngầm chiến lược đến các vị trí nằm có thể sử dụng tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) tấn công tới Mỹ. Việc Trung Quốc tìm cách bố trí kế hoạch trên xuất phát từ một số yếu tố sau: Quan hệ Trung – Mỹ không dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Quan hệ giữa hai nước chủ yếu vẫn là ngờ vực ngay cả khi cả hai đang cố gắng hết sức để duy trì đối thoại, kể cả trong lĩnh vực quốc phòng, nhằm tránh những sự cố có thể biến thành xung đột; Trung Quốc luôn coi Mỹ là một kẻ thù tiềm tàng, ngược lại Mỹ cũng không hề tin tưởng vào những hành xử hòa bình của Trung Quốc trong tương lai; Các nước làng giềng với Trung Quốc đều lo ngại sâu sắc trước sức mạnh quân sự đang tăng lên của Trung Quốc. Nhật Bản gần đây liên tục điều chỉnh chính sách quốc phòng, sửa đổi Hiến pháp, tăng cường sức mạnh quân sự và hiện diện ở Biển Đông. Các nước ASEAN vì các lợi ích xung đột hiện nay ở Biển Đông, đều lo sợ rằng Trung Quốc sẽ áp đặt các giải pháp đơn phương bằng vũ lực để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, khiến các nước liên quan trực tiếp tới tranh chấp như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei hoặc những nước đang tỏ ra thực sự quan ngại như Indonesia và Singapore đang cố gắng kháng cự lại tham vọng bá quyền của Trung Quốc bằng cách tìm kiếm giải pháp hòa bình cho tình hình mà không phải từ bỏ những lợi ích riêng ở khu vực. Tình hình này tạo ra sự chia rẽ giữa các quốc gia Đông Nam Á có liên quan và Trung Quốc đang cố gắng tận dụng điều này để tạo lợi thế. Trung Quốc đã phần nào thành công vì đã chia rẽ được ASEAN trong vấn đề Biển Đông. (v Cố tình vận dụng sai các quy định của luật pháp quốc tế nhằm tìm cách biện minh, xâm chiếm chủ quyền trên Biển Đông. Bằng cách tuyên bố chủ quyền dựa vào “đường chín đoạn”, Trung Quốc đang dựng lên một lý lẽ để bao biện cho những tham vọng của mình đối với khu vực. Trung Quốc áp dụng sai quy định về vẽ đường cơ sở thẳng cho quần đảo Hoàng Sa (của Việt Nam). Hành động này của Trung Quốc vừa vi phạm các quy định của UNCLOS (Điều 121 về quy chế các đảo) và vừa xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc sử dụng vũ lực xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam). (v)Tìm cách đánh lừa cộng đồng quốc tế về yêu sách chủ quyền theo “đường 9 đoạn”. Trung Quốc coi “đường 9 đoạn” là đường trung tuyến giữa phần lãnh thổ là đảo của Trung Quốc với các quốc gia tiếp giáp trên Biển Đông, coi khu vực trong “đường 9 đoạn” là vùng đặc quyền kinh tế hoặc lãnh hải của Bắc Kinh. Ngoài ra, Bắc Kinh cũng coi khu vực này là “vùng nước lịch sử”, viện cớ rằng “đường 9 đoạn” đã tồn tại hơn sáu mươi năm và không quốc gia nào tỏ ý phản đối sự tồn tại của đường này kể từ khi Cục Địa lý thuộc Bộ Nội vụ, Cộng hòa Trung Hoa sau này, dưới sự lãnh đạo của Quốc Dân Đảng, in Bản đồ vị trí các đảo Biển Nam Trung Hoa (Nanhai zhudao weizhi tu) vào năm 1947. Trung Quốc cố tình vận dụng sai các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS để diễn giải, lừa bịp cộng đồng quốc tế về cái gọi là “chủ quyền hợp pháp” của Bắc Kinh ở Biển Đông nhằm: Cho phép Trung Quốc cấm hải quân nước ngoài đi vào khu vực biển này vì, trong trường hợp này phần biển trong “đường 9 đoạn” sẽ được coi là vùng lãnh hải của Trung Quốc; cấm hải quân nước ngoài đi vào khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, nhờ đó tàu ngầm, tàu chiến của Trung Quốc có thể hoạt động tự do ở Biển Đông; gia tăng khả năng kiểm soát tình hình eo biển Đài Loan; ngăn cản Mỹ và các nước đồng minh hiện diện quân sự ở Biển Đông. (vi) Thông qua độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc sẽ củng cố lực lượng quốc phòng để thực hiện ý đồ thống nhất với Đài Loan. Từ trước đến nay, Trung Quốc vẫn luôn coi Đài Loan là lợi ích cốt lõi và là một phần không thể tách rời của Trung Quốc. Chính vì vậy, Bắc Kinh đang củng cố và triển khai tổng hợp các biện pháp (từ quân sự, ngoại giao, kinh tế, chính trị…) để có thể thống nhất với Đài Loan khi thời cơ đến. Không những vậy, Đài Loan còn có vị trí địa chiến lược quan trọng, nó là nới giao nhau giữa Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trung Quốc muốn rời một trong hai vùng biển này để tiến ra Thái Bình Dương đều phải đi qua các eo biển khác ngang qua các đảo rải rác trong khu vực. Trong số này, một số eo biển khá rộng, như Eo biển Okinawa-Miyako rộng khoảng 150 dặm. Tuy nhiên phần lớn các eo biển đều hẹp. Do đó trong thời gian khủng hoảng hoặc chiến tranh, tất cả các lối đi này đều dễ dàng bị chặn hoặc mai phục nếu có đủ số lượng tàu ngầm và các phương tiện hải quân khác. Đây là vấn đề hải quân Trung Quốc đang phải đối mặt khi muốn tiến ra đại dương. Trong thời bình, lực lượng hải quân Trung Quốc không thể di chuyển mà không bị phát hiện khi đi qua các chuỗi đảo nhỏ này. Trên thực tế, việc thống nhất Đài Loan còn sẽ giúp hải quân Trung Quốc có vùng lãnh hải an toàn thực sự bởi vùng nước của Đài Loan khi đó sẽ thuộc toàn quyền kiểm soát của Bắc Kinh: về phía Bắc Đài Loan vùng nước này kéo dài tới quần đảo Điếu Ngư, về phía Nam vùng nước bao trùm nửa Eo biển Bashi. Nhờ vậy Hải quân Trung Quốc có thể tự do đi lại trên Thái Bình Dương qua những vùng nước nay đã thuộc lãnh hải của Trung Quốc. Nếu những tuyến đường này được lưu thông tự do trong thời bình thì trong bối cảnh chiến tranh sẽ không ngăn được các lực lượng thù địch dùng chiến lược phong tỏa để cấm các phương tiện hải quân Trung Quốc ra vào các vùng nước tự do của Thái Bình Dương.
Ngoài ra, âm mưu độc chiếm các nguồn tài nguyên, khoáng sản, hản sản ở Biển Đông cũng là một trong những mục đích quan trọng của Bắc Kinh để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong nước. Biển Đông là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của Trung Quốc cũng như các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippines, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5 – 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 7 – 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới. Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney – Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước khai thác và sản xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan … trong đó Indonesia là thành viên của OPEC. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 – 20 năm tới. Ngoài ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác được coi là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
Hành động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông
Ngăn hải quân Mỹ và các nước đồng minh tiến tới quá gần lãnh thổ của Trung Quốc. Để ngăn hải quân Mỹ tiến tới lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả Đài Loan, Trung Quốc đang bắt đầu tăng cường năng lực chống xâm nhập cùng với các phương tiện như tàu ngầm tấn công hạt nhân và phát triển lực lượng tàu sân bay hùng hậu. Khả năng chống xâm nhập này phụ thuộc vào việc sử dụng tên lửa diệt tàu sân bay DF-21C có tầm hoạt động trong vòng 1.500 km, được dùng để phát hiện mục tiêu di động bằng hệ thống dò tìm cảm biến quan sát vượt tầm nhìn để định vị và theo dõi chuyển động của tàu đang di chuyển. Tuy nhiên điều đó chưa đủ. Trên thực tế, để đảm bảo chiến lược tiền diên phòng ngự bằng cách dựa vào đường xanh và sau đó là đưa các phương tiện hải quân tiến xa ra khỏi Trung Quốc và tới gần lãnh thổ Mỹ, Trung Quốc cần những con đường an toàn tiến ra biển khơi. Đây là một trong các lý do Trung Quốc muốn biến Biển Đông thành một thánh địa, để có thể đảm bảo triển khai đội tàu ngầm một cách an toàn từ Tam Á tới phần sâu nhất của Biển Đông.
Tăng cường phát triển lực lượng hải quân. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đặc biệt chú trọng phát triển lực lượng hải quân. Trung Quốc hiện có khoảng 700 tàu chiến các loại, trong đó có 02 tàu sân bay, 29 tàu tuần dương, 49 tàu khu trục, 34 tàu hộ vệ, 68 tàu ngầm tấn công và hơn 100 tàu tên lửa; đáng chú ý các tàu mặt nước lớn của Trung Quốc đều có khả năng triển khai tên lửa tấn công và một số chiếc có còn khả năng chiến khai cả vũ khí hạt nhân chiến thuật; một số tàu chiến của Trung Quốc được đánh giá là có tính năng ưu việt so với mặt bằng chung của các nước, như: Tàu khu trục lớn nhất châu Á Type 055; tàu đổ bộ Type 071 (dài 210 m và độ choán nước 25.000 tấn); 4 tàu ngầm hạt nhân Type 094 lớp Tấn (lượng giãn nước 11.000 tấn) là khả năng tấn công hạt nhân, mỗi tàu được trang bị 12 tên lửa đạn đạo JL-2 và tên lửa chống tàu. Không quân của Hải quân Trung Quốc có 346 máy bay (đứng thứ hai trên thế giới về số lượng, đứng sau Mỹ). Hiện lực lượng này có khoảng 30 máy bay ném bom chiến lược Tây An H-6, có khả năng mang được tên lửa hành trình chống tàu mặt nước tốc độ cận âm; 8 máy bay cảnh báo sớm KJ-200, 5 máy bayY-8 ELINT được trang bị các khí tài trinh sát điện tử, 3 máy bay bay tuần tra chống ngầm tầm xa Y-8MPA trang bị các hệ thống radar trinh sát mặt nước, hệ thống định vị thủy âm tìm kiếm tàu ngầm, 32 máy bay vận tải hạng trung Y-8 (có thể chở 96 lính thường hoặc 82 lính dù hoặc 20 tấn hàng hóa); 20 máy bay J-15, 20 máy bay chiến đấu J-10, 24 máy bay chiến đấu Su-30MK2, 24 máy bay chiến đấuJ-11BH,120 máy bay chiến đấu JH-7 và JH-7A; 48 máy bay J-8II, 35 máy bay J-7D/E (loại cũ, tính năng hạn chế, sản xuất từ những năm 1970); 26 trực thăng vận tải kiêm nhiệm vụ tuần tra biển Z-8… Ngoài ra, Trung Quốc hiện có tàu sân bay Liêu Ninh mới được đưa vào sử dụng từ năm 2012 và mới hạ thủy tàu sân bay nội địa đầu tiên. Hiện nhóm tàu sân bay Liêu Ninh đang sử dụng một tàu khu trục Type-052D, 2 tàu khu trục Type-052C, 2 tàu hộ vệ tên lửa Type-054, 2 tàu ngầm hạt nhân chiến lược, một tàu hộ tống Type-056 và tàu cung cấp Type-903. Tàu Liêu Ninh hiện mới được trang bị phi đội 24 máy bay chiến đấu J-15.
Không những vậy, Trung Quốc còn tăng cường tập trận, tuần tra phi pháp trong khu vực. Trong những năm gần đây, Trung Quốc liên tục gia tăng tần suất, quy mô các cuộc tập trận bắn đạn thật phi pháp ở Biển Đông. Trong những lần tập trận này, Trung Quốc thường huy động một lượng lớn tàu chiến, máy bay chiến đấu, binh sỹ tham gia nhằm thị uy và đe dọa, cảnh cáo Mỹ và các nước đồng minh trong vấn đề Biển Đông. Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận quy mô lớn chưa từng thấy, huy động các thiết bị điện tử chặn sóng radar, tên lửa hạm đối không HQ-9B, tên lửa chống hạm (ACBM) YJ-12B, máy bay ném bom, máy bay tiêm kích J-11, pháp cao xạ, radar… đến các đảo đang tranh chấp trong khu vực. Với việc làm này, Trung Quốc bất chấp sự quan ngại, phản đối của cộng đồng quốc tế để thúc đẩy quân sự hóa ở Biển Đông, từng bước thực hiện âm mưu thôn tính Biển Đông.
Ngoài ra, Trung Quốc còn cải tạo phi pháp các thực thể đang chiếm đóng trái phép ở Biển Đông. Tại quần đảo Hoàng Sa, lợi dụng tình trạng kiểm soát trên thực tế toàn bộ quần đảo này. Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều hoạt động quân sự phi pháp như xây đường băng trên đảo Phú Lâm có chiều dài 2.000m và sau đó là điều máy bay chiến đấu, bố trí tên lửa đất đối không HQ-9 ra đảo Phú Lâm; xây dựng trái phép căn cứ trực thăng quân sự trên đảo Quang Hòa. Tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hoạt động đáng chú ý nhất là kể từ năm 2014 Trung Quốc đã đẩy nhanh tiến độ xây dựng và cải tạo đá Tư Nghĩa, đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Xu Bi.
Nhìn chung, về bản chất, Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông nhằm chiếm trọn khu vực có vị trí địa chiến lược quan trọng và nguồn tài nguyên phong phú phục vụ phát triển trong nước. Để đạt được âm mưu trên, Trung Quốc đã, đang và sẽ không từ bất kỳ thủ đoạn nào, dù cho thủ đoạn đó vi phạm luật pháp quốc tế và bị cộng đồng quốc tế lên án. Hành động này của Trung Quốc đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với tất cả các nước có lợi ích hợp pháp ở Biển Đông, cần đoàn kết, phối hợp chặt chẽ ngăn chặn các hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông.