Tại Hội nghị Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần thứ 34 đã thông qua văn kiện “Quan điểm ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” (AOIP), trong đó đưa cụm “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” vào từ điển thuật ngữ chính thức của ASEAN. Sự thay đổi danh pháp này phù hợp và gắn liền với nguyên tắc lấy ASEAN làm trung tâm thông qua các cơ chế do ASEAN dẫn đầu, dựa trên đối thoại và hợp tác, và nhằm mục tiêu xây dựng trật tự khu vực cởi mở và bao trùm.
Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Theo đó, AOIP nhấn mạnh sự hợp tác chú trọng vào kinh tế trong khi tránh xa sự cạnh tranh chiến lược. Cách tiếp cận theo hướng phát triển này cho rằng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương không hẳn là một hiện tượng xuất phát từ động cơ an ninh mà phần nhiều là một khái niệm liên quan đến kinh tế và sự kết nối. AOIP cũng tìm cách tái khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong bối cảnh các luận điệu cạnh tranh của các nước lớn về cấu trúc Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang nổi lên. Văn kiện này đưa ra một kịch bản chung cho các nước thành viên ASEAN để đối phó với những sức ép từ bên ngoài buộc họ phải có một lập trường về “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Ngoài ra, AOIP gần như không tác động đến các quan điểm chiến lược của các nước lớn và sự cạnh tranh chiến lược đang trở nên căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc. Đó cũng là một chỉ dẫn hạn chế cho mỗi nước thành viên ASEAN khi phải đối mặt với những câu hỏi kép liên quan đến sự can dự của họ với Mỹ và Trung Quốc khi hai nền kinh tế này đang ngày càng tách rời.
Tuy nhiên, giới chuyên gia lại cho rằng trong nhiều khía cạnh, AOIP vẫn là “rượu cũ” trong một chiếc bình có bao bì mới. Sáng kiến này tiếp nối quan điểm cởi mở và bao trùm của ASEAN, và xác định ASEAN là “bên môi giới trung thực trong môi trường chiến lược gồm các lợi ích cạnh tranh”. Với biểu ngữ “Một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đối thoại và hợp tác thay vì đối đầu”, AOIP xây dựng chính sách lâu dài của ASEAN trong đó tính đến tất cả các đối tác và bạn bè, đặc biệt là các nước lớn, trong các khuôn khổ của ASEAN, thúc đẩy thói quen đối thoại và hợp tác của họ, khuyến khích họ tự kiềm chế, và khai thác các khả năng cũng như nguồn lực của họ để giải quyết các thách thức chung. Ban hội thẩm vẫn đang hội ý về việc liệu cách tiếp cận đối thoại và hợp tác của ASEAN có hiệu quả hay không trong bối cảnh mới, khi quan hệ Mỹ-Trung có bước chuyển mạnh mẽ sang hướng cạnh tranh chiến lược và thậm chí ngừng kết nối về kinh tế và công nghệ.
AOIP quy định các nguyên tắc lâu dài của ASEAN liên quan tới cấu trúc khu vực, bao gồm “cởi mở”, “minh bạch”, “bao trùm”, “dựa trên các quy tắc” và “tôn trọng luật pháp quốc tế”. Khái niệm “tự do” được tuyên bố trong AOIP nghĩa là “đóng góp cho việc duy trì hòa bình, tự do và thịnh vượng”. Mặc dù không giải thích cặn kẽ “tự do” nghĩa là gì, nhưng có thể gộp chung với nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, không can thiệp và bình đẳng được nhắc đến trong một đoạn sau đó. Ở khía cạnh này, nó có nét tương đồng nào đó với ý “tự do” trong khái niệm “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở” (FOIP) của Mỹ – trong đó có quyền tự do không bị cưỡng ép hoặc tự do thực thi chủ quyền.
Tuy nhiên, sự tương đồng chỉ dừng lại ở đó. “Tự do” trong FOIP áp dụng cho cả quan hệ quốc tế và việc quản lý trong nước – vấn đề thứ hai được nêu rõ trong “xã hội tự do, cụ thể là quyền và tự do cá nhân, quản trị tốt” và “tuân thủ các giá trị chung của Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền”. Trong khi đó, “tự do” trong AOIP chủ yếu tập trung vào quan hệ giữa các quốc gia, như được phản ánh trong các hiệp ước quốc tế được liệt kê trong phạm vi “tôn trọng luật pháp quốc tế”, trong đó bao gồm cả Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, các hiệp ước và công ước khác có liên quan của Liên hợp quốc, Hiến chương ASEAN, cùng nhiều hiệp ước và hiệp định khác của ASEAN, cũng như Các nguyên tắc đôi bên cùng có lợi được nêu tại Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS).
Một chỉ số khác cho thấy sự tập trung mang tính chuẩn mực của AOIP vào các mối quan hệ giữa các quốc gia là tầm quan trọng của Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (TAC) như là quy tắc ứng xử cho các nước trong khu vực, đặc biệt là về bình đẳng chủ quyền, giải quyết hòa bình các tranh chấp và từ bỏ vũ lực. Điều này một lần nữa là yếu tố cơ bản trong kịch bản của ASEAN nhằm duy trì phép lịch sự và ổn định trong trật tự khu vực đang thay đổi. Bên cạnh TAC, Quan điểm ASEAN còn để ngỏ khả năng phát triển một văn kiện ASEAN phù hợp với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Đây có thể là cách Indonesia duy trì khả năng trong tương lai sẽ khôi phục đề xuất về Hiệp ước Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương do cựu Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Marty Natalegawa đưa ra. Bị gạt sang một bên kể từ khi Indonesia thay đổi chính quyền năm 2014, hiệp ước này nhằm mục tiêu đúc rút các nguyên tắc TAC cho bối cảnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Theo lời của ông Marty, đó là khuôn khổ gần giống TAC cho các nước thành viên EAS rộng lớn hơn, phát huy kinh nghiệm của ASEAN trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp và không sử dụng vũ lực để kết nối các nước lớn bên ngoài, cụ thể là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ.
Về mặt thể chế, không có thiết kế mới nào được đưa ra vì AOIP “không nhằm mục tiêu lập ra các cơ chế mới hay thay thế các cơ chế hiện có”. Nó “đặt vai trò trung tâm của ASEAN làm nguyên tắc nền tảng để thúc đẩy hợp tác trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, với các cơ chế do ASEAN dẫn đầu, chẳng hạn như EAS – một nền tảng cho đối thoại và hợp tác trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. AOIP nhằm mục tiêu khôi phục sức mạnh hiệu triệu và lập ra nghị trình của ASEAN cho hợp tác đa phương trong khu vực thông qua các thể chế do ASEAN dẫn đầu vào thời điểm chủ nghĩa đơn phương đang trên đà trỗi dậy và các hình thức liên kết khác (hai bên, ba bên, bốn bên, đa phương có giới hạn) đang ngày càng nổi bật trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
AOIP tập trung vào việc “củng cố và tối ưu hóa các cơ chế do ASEAN dẫn đầu” nhưng không quy định cách thức thực hiện. Sau đó, AOIP tuyên bố rằng “phải theo đuổi các cuộc thảo luận chiến lược về vấn đề này và các hoạt động hợp tác trên thực tế tại các cơ chế do ASEAN dẫn đầu trong đó có EAS, cơ chế hợp tác ASEAN+1, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), cùng nhiều cơ chế khác”. Trái ngược với tầm quan trọng “rõ ràng, vốn có và có chủ đích của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong tầm nhìn của ASEAN” được nêu tại EAS, AOIP không đề cập đến cơ chế ASEAN+3 (APT) – “phương tiện chính hướng tới mục tiêu lâu dài là xây dựng cộng đồng Đông Á”. Người ta có thể lý giải về mặt chuyên môn rằng tư cách thành viên của APT chỉ giới hạn trong khu vực Thái Bình Dương, do đó không phù hợp với bối cảnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Ngoài vị trí địa lý, việc không nhắc đến APT có thể phát đi tín hiệu địa chính trị rằng hiện ASEAN không thể chú trọng đến cộng đồng Đông Á mặc dù đó vẫn là một mục tiêu chính thức lâu dài. Khi ASEAN đẩy mạnh chủ nghĩa khu vực mở rộng từ Đông Á sang châu Á-Thái Bình Dương và hiện tại là Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, bản sắc Đông Á như một khái niệm địa chính trị sẽ tiếp tục suy giảm hơn nữa, bất chấp thực tế rằng sự hội nhập kinh tế bên trong khu vực Đông Á đang ngày càng đi vào chiều sâu (mức đóng góp của Đông Á trong giá trị gia tăng từ xuất khẩu của ASEAN đã tăng từ 35% năm 2005 lên 40% năm 2016, trong khi mức đóng góp của Mỹ giảm từ 20% xuống còn 15%).
Tuy nhiên, việc tiếp nhận khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương theo cách này không có nghĩa là quan điểm chiến lược của ASEAN hiện sẽ vượt quá các động lực phức tạp của quan hệ quốc tế ở khu vực Ấn Độ Dương; nó cũng không cho thấy các cơ chế do ASEAN dẫn đầu sẽ sớm hoan nghênh sự tham gia của các nước vành đai Ấn Độ Dương vì AOIP nêu rõ các định dạng hiện nay của nó sẽ được duy trì lâu dài. Nói cách khác, AOIP vẫn tập trung vào Đông Nam Á trong khi sẽ tiến tới khai thác “sự hợp tác với các cơ chế khu vực và tiểu khu vực khác ở châu Á Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương trong các lĩnh vực cụ thể có lợi ích chung”. Một cơ chế như vậy là Hiệp hội vành đai Ấn Độ Dương (IORA) gần đây đã nhận được sự quan tâm và sự tham gia tích cực của Indonesia. Sự mở rộng về phía Tây này cũng được thúc đẩy nhờ tầm quan trọng ngày càng được chú trọng của Ấn Độ với tư cách là trung tâm quyền lực mới nổi trong trật tự khu vực –với tiềm năng kinh tế và tầm ảnh hưởng chiến lược cần phải được tính đến và tận dụng để mang lại lợi ích cho ASEAN. Đây là sự tiếp nối tầm nhìn chiến lược của ASEAN, vốn sớm đã đảm bảo sự tham gia của Ấn Độ trong ARF, EAS và ADMM+ cũng như trong các cuộc đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Tiến sĩ Teuku Rezasyah – giảng viên quan hệ quốc tế của Đại học Padjadjaran – cho rằng, việc các nước đối tác sẵn sàng ủng hộ quan niệm Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương do ASEAN xây dựng chứng tỏ sự tin cậy trong hợp tác khu vực. Do đó, ASEAN cần thực hiện nhiều kịch bản liên kết khác nhau, dựa trên chủ quyền khu vực, quyền sống trong môi trường láng giềng tốt và sự bình đẳng trong luật pháp quốc tế mà không cần phải tạo ra sự cạnh tranh mới giữa các quốc gia ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Ông Teuku Rezasyah lưu ý rằng, để tạo ra sự hiểu biết về hạ tầng tổ chức linh hoạt, các quan niệm chiến lược không nên hướng đến việc hình thành các liên minh mới, mà cần tạo lập quan hệ công bằng và bền vững, không nên vội vã hình thành các cơ chế. Điều này rất quan trọng để ngăn chặn những ý tưởng lẻ tẻ của các thành viên trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể làm hỏng các sắc thái của sự ổn định. Với Tầm nhìn này, ASEAN sẽ thực hiện hợp tác trong nhiều lĩnh vực, bao gồm hợp tác hàng hải, kết nối, các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc năm 2030 và các lĩnh vực hợp tác kinh tế khác.
Phát biểu tại tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ngày 28/8, Đại sứ Indonesia tại Vương quốc Anh, Ireland và Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), ông Rizal Sukma cho rằng, Tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của ASEAN là một nhu cầu chiến lược. ASEAN không còn có thể chỉ thụ động trong khi các cường quốc ngoài khu vực lại chủ động định hình tương lai của chính khu vực này. ASEAN phải đảm bảo rằng, hai lợi ích cốt lõi – Vai trò trung tâm của ASEAN và sự tự chủ chiến lược của khu vực – sẽ được duy trì, củng cố và tăng cường. ASEAN hy vọng rằng, Tầm nhìn này sẽ mang lại nền tảng cần thiết để thực hiện điều đó. Theo ông Sukma, Tầm nhìn này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sáng kiến và quyết tâm của Indonesia. Dưới sự lãnh đạo và tham gia trực tiếp của Ngoại trưởng Retno, Indonesia đã thuyết phục được các đối tác trong khu vực rằng, đây là nhu cầu chiến lược để ASEAN đưa ra tầm nhìn về tương lai của trật tự và cấu trúc khu vực. Indonesia đặt kỳ vọng vào Tầm nhìn này để giải quyết các thách thức chiến lược trong khu vực và tạo động lực cho sự hợp tác khu vực lớn hơn.
Tầm quan trọng của tầm nhìn Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
Trong suốt năm 2018 và cho tới đầu năm 2019, thuật ngữ này vẫn là điểm gây nhiều tranh cãi nhất trong các cuộc tranh luận nội bộ của ASEAN. Một mối quan tâm chủ yếu là việc ASEAN tiếp nhận khái niệm “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” có thể được hiểu là sự xác nhận hay vào hùa với FOIP, điều sẽ gây ra vấn đề kép đối với ASEAN.
Thứ nhất, vẫn chưa rõ FOIP có ý nghĩa chính xác là gì và sẽ được thực thi như thế nào, nhất là trong phạm vi nhóm Bộ tứ. Như nhận xét của Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan, “cái được gọi là Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở vẫn chưa được định hình đủ rõ ràng” và “chúng tôi không bao giờ ký kết bất kỳ thứ gì trừ phi biết chính xác ý nghĩa của nó”. Ngay cả trong số 4 nước thành viên Bộ tứ, dù có chung nền tảng là bảo vệ trật tự khu vực dựa trên các quy tắc và cùng chia sẻ các mối quan ngại chiến lược khi đối đầu với Trung Quốc, mỗi nước lại đưa ra những nhận định khác nhau về cách thức theo đuổi một Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở trong chính sách đối ngoại của riêng họ. Đây có thể là một sự lựa chọn có chủ ý chứ không phải là sự thiếu phối hợp. Malcolm Cook chỉ ra rằng “trong cách tiếp cận, khái niệm khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mang nhiều tính hậu hiện đại hơn so với tính hiện đại. Nó không chính thức, không được xác định hình thức hay định hướng và mang tính ngẫu nhiên”.
Thứ hai, thái độ miễn cưỡng trong việc tiếp nhận “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” của các nước thành viên ASEAN trực tiếp nảy sinh từ mối quan ngại rằng việc tiếp nhận khái niệm này sẽ khiến Trung Quốc hoảng hốt. Bắc Kinh vẫn chưa chấp nhận thuật ngữ này mặc dù “phần trên biển của ‘Vành đai và Con đường’ về cơ bản là Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đặc sắc Trung Quốc”. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn duy trì thái độ coi thường FOIP, với việc Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị gọi đó là “đám bọt biển ở Thái Bình Dương hay Ấn Độ Dương – nó có thể nhận được sự chú ý nào đó nhưng sẽ sớm tan biến”. Tuy vậy, đằng sau thái độ coi thường rõ ràng như vậy là thái độ lo âu và e sợ về chiến lược của Bắc Kinh đối với “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” như một thuật ngữ “nặng mùi nghị trình của Mỹ nhằm xây dựng liên minh với Nhật Bản, Úc và Ấn Độ – được gọi là Bộ tứ – về cơ bản là để kiềm chế Trung Quốc”. Khi xét tới sự nhạy cảm của Bắc Kinh đối với thuật ngữ “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” và sự dè dặt của chính ASEAN đối với FOIP, giữa khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của ASEAN với FOIP phải có sự phân biệt định tính.
Nhìn chung, tuy AOIP không có nghĩa là một sự thay đổi điển hình trong văn hóa chiến lược của ASEAN, nhưng đây là một tài liệu hữu ích cho ASEAN và các nước thành viên. Nó đại diện cho quan điểm riêng của ASEAN giữa lúc có nhiều luận điệu cạnh tranh, do đó mang đến một kịch bản chung cho các nước thành viên ASEAN trong việc ứng phó với những áp lực từ bên ngoài trước việc có một lập trường về “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”.