Trong bối cảnh Việt Nam và Mỹ đang chuẩn bị kỷ niệm 25 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ (1995-2020), Đại sứ Hoa Kỳ Daniel Daniel J. Kritenbrink nhấn mạnh Việt Nam đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương của Mỹ và nước này luôn coi trọng đảm bảo an ninh hàng hải ở Biển Đông.
Theo Đại sứ Daniel Kritenbrink, Việt Nam đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương của Mỹ; khẳng định Mỹ muốn Việt Nam thành công và thành công của Việt Nam là thành công của Mỹ; đồng thời nhấn mạnh chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ dựa trên niềm tin rằng Mỹ mạnh mẽ hơn, an toàn hơn và thịnh vượng hơn nếu Washington có những đồng minh, những người bạn và đối tác mạnh hơn và thành công như Việt Nam. Vì như thế hai nước có thể thúc đẩy lợi ích chung và tăng cường những lợi ích đó trên nhiều lĩnh vực như an ninh, kinh tế.
Không những vậy, Đại sứ Daniel Kritenbrink còn cho biết, Mỹ luôn coi trọng đảm bảo an ninh hàng hải ở Biển Đông và tất cả các quốc gia Đông Á đều được hưởng lợi theo trật tự an ninh nhất định mà trong đó tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều tuân thủ chung các quy tắc. Nước lớn không được bắt nạt nước nhỏ và tất cả các quốc gia trong vùng Biển Đông đều được lợi, từ tự do hàng hải, thương mại không bị cản trở và có cơ hội tự do khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng biển này. Mối quan ngại của Mỹ với vấn đề hiện tại ở Biển Đông, đó là Trung Quốc đang thực thi một chiến lược hung hãn dựa trên việc xâm lấn đất đai và yêu sách hung hăng về hàng hải, mà không tuân theo luật quốc tế đặt ra để cản trở các nước như Việt Nam khai thác tài nguyên thiên nhiên mà các bạn đã tuyên bố. Nên một lần nữa, tầm nhìn của Mỹ về khu vực cũng như là về Biển Đông, đó cũng chính là tầm nhìn mà các đối tác Đông Nam Á của Mỹ đang có. Một tầm nhìn mà có sự tự do hàng hải, sự không bị ngăn trở về thương mại; một vùng biển và một khu vực mà ở đó các xung đột được giải quyết một cách hoà bình theo luật quốc tế. Một lần nữa tất cả các quốc gia đều tuân thủ theo cùng những quy tắc và luật lệ quốc tế.
Được biết, tháng 11/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump lần đầu tiên đề cập Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. Ý nghĩa của khía cạnh “tự do” trong chiến lược là chỉ các nước trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể tự theo đuổi những con đường riêng mà không bị ép buộc. Ngoài ra, Mỹ mong muốn các nước Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương được hưởng quyền tự do hơn, bao gồm tự do về quản lý, quyền hạn cơ bản, minh bạch và chống tham nhũng. Ý nghĩa của khía cạnh “rộng mở” là chỉ việc Mỹ muốn khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể mở rộng hơn nữa, trước hết là đường biển và đường không, sau là về hậu cần – cơ sở hạ tầng nhằm khuyến khích các nước hội nhập khu vực tốt hơn và phát triển kinh tế mạnh hơn.
Ngày 2/6/2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đã chính thức công bố một số nội dung chủ chốt nhất của Chiến lược. Theo đó, bốn nguyên nhân cơ bản dẫn tới việc Mỹ, Nhật Bản và các đối tác, đồng minh xây dựng “Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” như sau: (1) Quá trình chuyển dịch quyền lực đang diễn ra rất mạnh mẽ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương; sự phân bổ lại quyền lực ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương cũng đang làm thay đổi căn bản tương quan so sánh lực lượng, gây lo ngại đối với hầu hết các nước lớn. (2) Sau khi ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ, nội bộ Mỹ, nhất là chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã chỉ trích mạnh mẽ chính sách “kiên nhẫn chiến lược” của người tiền nhiệm và Đảng Dân chủ; cho rằng các chính quyền Mỹ trước đây đã không làm đủ mạnh để ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Do vậy, chính quyền mới của Mỹ hiện nay đã điều chỉnh cách tiếp cận, từ “kiên nhẫn chiến lược” và “tích cực can dự nhằm thay đổi hành vi của Trung Quốc” sang “cạnh tranh trực diện về mọi mặt”. Trong NSS và NDS, Mỹ xác định cả Trung Quốc lẫn Nga đều là các “cường quốc xét lại”, thách thức sức mạnh, ảnh hưởng và các lợi ích của Mỹ trên nhiều phương diện, như tuyên truyền, công nghệ, kinh tế và quốc phòng. (3) Trong bối cảnh trào lưu dân túy đang trỗi dậy mạnh mẽ, các chính sách của Tổng thống Mỹ Donald Trump gây lo ngại sâu sắc trong số các đồng minh, đối tác của Mỹ ở khu vực, như Nhật Bản và Australia. Ông Donald Trump đã không ít lần đề cập tới khả năng rút quân Mỹ ở Hàn Quốc về nước hoặc gây sức ép buộc các nước này phải gánh thêm chi phí quốc phòng. Do vậy, các nước này đã chủ động điều chỉnh chính sách để tìm cách kéo Mỹ ở lại khu vực, gia tăng vai trò và hình thành các liên kết, tập hợp lực lượng mới có lợi cho mình. (4) Do Ấn Độ có vai trò rất quan trọng ở khu vực (cả Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương), quan hệ Nhật Bản – Ấn Độ, Mỹ – Ấn Độ đang ngày càng “nồng ấm”… Hai bên cũng chia sẻ nhiều quan điểm, lập trường chung, nhiều lợi ích chung to lớn nên Mỹ và Nhật Bản đều muốn lôi kéo Ấn Độ để gia tăng đối trọng với Trung Quốc ở trên toàn tuyến. Trong khi đó, do bố trí lực lượng của Mỹ và đồng minh từ khu vực Nam Đài Loan tới châu Đại dương còn khá mỏng, nên Mỹ và Nhật Bản có xu hướng muốn lôi kéo cả Australia và các nước có quan điểm, lập trường tương tự để tạo thế cân bằng chiến lược mới ở Nam bán cầu.
Trong khi đó, về mặt địa chiến lược, Biển Đông không chỉ là một vùng biển quan trọng, nó còn nằm ở vị trí trung tâm của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và nó có tuyến đường hàng hải ngắn nhất kết nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Tiến sỹ Euan Graham, Giám đốc Chương trình an ninh quốc tế, Viện nghiên cứu Lowy, Australia nhận định, nếu nhìn vào các nước tiếp giáp Biển Đông thì Biển Đông là nguồn cung cấp nhiên liệu và thực phẩm dồi dào cho các nước ven biển. Tuy nhiên, giá trị địa chiến lược mới là vấn đề mấu chốt. Vai trò của Biển Đông rất là quan trọng bởi vì đây là vấn đề mà Trung Quốc và các nước Đông Nam Á không thống nhất. Nếu Trung Quốc ép buộc các nước Đông Nam Á phải công nhận rằng Trung Quốc có yêu sách ở vùng biển này thì sẽ rất khó khăn cho các nước sau này trong việc duy trì khu vực “tự do và rộng mở” hay việc duy trì trật tự của luật pháp. Vì vậy Biển Đông không chỉ quan trọng đối với các nước tiếp giáp vùng biển này mà đây là nơi mà có thể kiểm chứng cách hành xử của Trung Quốc sẽ được khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương mở rộng đánh giá, được chấp nhận hay không chấp nhận. Trong khía cạnh khác, Mỹ coi là khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, bao gồm cả khu vực Biển Đông có địa chiến lược trọng yếu, tác động trực tiếp đến an ninh quốc gia và vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ. Vì vậy, việc thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là cách để Mỹ bảo vệ lợi ích của công dân và thị trường Mỹ, bảo đảm sự tự do và an ninh giao thông đường biển, duy trì thế cân bằng lực lượng, thúc đẩy các mặt dân chủ và nhân quyền theo tiêu chuẩn của Mỹ tại khu vực. Ngoài ra, Mỹ cho rằng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, đặc biệt là việc Bắc Kinh nỗ lực xây dựng và quân sự hóa các tiền đồn ở Biển Đông đang đe dọa dòng chảy thương mại tự do, đe dọa thu hẹp chủ quyền của các quốc gia, làm suy giảm sự ổn định khu vực và việc đẩy mạnh sáng kiến “Vành đai và Con đường” của nước này đang thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ tại khu vực. Không những vậy, khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương chưa có một cơ chế đa phương về an ninh tập thể mà chủ yếu dựa trên các hiệp định và thỏa thuận song phương, như: Hiệp ước An ninh Nhật – Mỹ, Hiệp ước về phòng thủ chung giữa Mỹ và Hàn Quốc… nên Mỹ thấy cần phải tập hợp lực lượng, thắt chặt mối quan hệ với các đồng minh tại khu vực, trong đó khuyến khích vai trò của Ấn Độ, để bảo vệ lợi ích, duy trì ảnh hưởng và vị trí siêu cường của mình tại khu vực. Phát biểu tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 17, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi cho rằng quan điểm của Ấn Độ về chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là “khu vực tự nhiên” với Đông Nam Á ở trung tâm và “tất cả các nước đều có quyền tiếp cận bình đẳng theo luật pháp quốc tế trong việc sử dụng các không gian chung trên biển, trên không. Những điều đó sẽ đưa lại quyền tự do hàng hải, thương mại không bị cản trở và giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế”. Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đã tái khẳng định cam kết của Mỹ đối với vai trò trung tâm của ASEAN, ủng hộ quan hệ đối tác với ASEAN và các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, đồng thời tái đảm bảo với các nước Đông Nam Á rằng chiến lược này ở mức độ nào đó, khi được đúc kết thành cơ chế hợp tác “Đối thoại Tứ giác” (Ấn Độ – Mỹ – Australia – Nhật Bản) không có nghĩa là loại trừ hoặc giảm bớt vai trò của Đông Nam Á; nhấn mạnh sự cần thiết của việc đoàn kết ASEAN, cho rằng “ngày càng có nhiều nước thành viên ASEAN thể hiện quan điểm riêng và cách tốt hơn là các nước này nên thúc đẩy sự tự do trong khu vực trước các hành động cưỡng ép và tôn trọng luật pháp quốc tế”; khẳng định “chiến lược của Mỹ thừa nhận không một nước nào có thể hoặc sẽ thống trị khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Đây là một nguyên tắc mà ASEAN nên đưa vào vấn đề Biển Đông, ví dụ như không một nước nào có thể ra luật lệ với các vùng biển và thống trị không gian địa chiến lược của Biển Đông”.
Theo các chuyên gia, chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ sẽ khiến khu vực trở thành một sân chơi mới, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, tự do và cởi mở, hoàn toàn không bị lệ thuộc vào sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc. Mặt khác, chiến lược này tạo thêm động lực, nguồn lực tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh của các nước trong khu vực, đảm bảo cho họ có cơ hội tranh thủ được những yếu tố phù hợp, như: vốn, công nghệ, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, đối phó với các thách thức an ninh chung. Ngoài ra, việc điều chỉnh chiến lược của Mỹ làm nảy sinh cạnh tranh mạnh mẽ trong quan hệ giữa các nước lớn, tạo nhiều cơ hội để các nước nhỏ trong khu vực tranh thủ hợp tác xây dựng, nâng cao tiềm lực khoa học – công nghệ, phục vụ hiện đại hóa quân đội của mình. Tuy nhiên, việc đồng thời có cả sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc và chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ có thể khiến khu vực rơi vào tình trạng căng thẳng, cạnh tranh, nhất là tại những điểm nóng, như: Biển Đông, biển Hoa Đông, vùng lãnh thổ Đài Loan và bán đảo Triều Tiên. Thêm vào đó, sự cọ xát giữa sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc và chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ sẽ tiếp tục làm cho cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp hơn. Thời gian tới, Mỹ và các nước sẽ gặp nhiều khó khăn khi thực hiện chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”. (1) Trung Quốc có khả năng sẽ tăng cường căng thẳng địa chính trị, đặc biệt nếu Bắc Kinh nhận thấy Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương như một sự bao vây và ngăn chặn mang tính khiêu khích. (2) Việc Mỹ mở rộng sự hiện diện quân sự tại các khu vực rộng lớn có nguy cơ dẫn tới leo thang căng thẳng. (3) Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” là một thách thức đối với vai trò trung tâm của ASEAN. Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và Mỹ sẽ nhấn mạnh rằng ASEAN vẫn đi đầu và đóng vai trò trung tâm trong các hành động và hoạt động xây dựng kiến trúc khu vực. Tuy nhiên, các nước trên có khả năng bỏ qua ASEAN bằng cách thực hiện hành động cấp khu vực theo những phương cách không yêu cầu ASEAN đóng vai trò chủ đạo tại thời điểm nhóm 10 thành viên Đông Nam Á không tìm được giải pháp cho các đảo nhân tạo ở Biển Đông, hay vấn đề nguồn nước sông Mê Công.
Đáng chú ý, giới chuyên gia cho rằng với vai trò là một bên tham gia tranh chấp Biển Đông và dễ bị tổn thương trước quyền lực ngày càng lớn và sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ một trật tự khu vực dựa trên quy tắc và không tồn tại sự ép buộc. Tương tự như vậy, tự do hàng hải và hàng không cũng là những gì Việt Nam tìm cách thúc đẩy như một lá cờ tập hợp lực lượng để huy động sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc đấu tranh của mình chống lại Trung Quốc ở Biển Đông. Giới chuyên gia cho rằng chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương đang mở ra nhiều cơ hội đối với Việt Nam. Có thể thấy rõ, trong Chiến lược này, Việt Nam có lợi ích to lớn trong hầu hết các vấn đề trên cả ba trụ cột. Quan điểm, lập trường của Việt Nam cũng có nhiều điểm tương đồng với các nội hàm của cả ba trụ cột nêu trên. (1) Đa số các mục tiêu, nguyên tắc, nội hàm của Chiến lược này không mâu thuẫn với các quan điểm, lập trường cũng như lợi ích quốc gia của Việt Nam, nếu không nói là có sự tương đồng đáng kể (ở mức độ cao và phân bổ đều trên cả ba trụ cột). (2) Về phát triển, Việt Nam cũng đang có nhu cầu to lớn về xây dựng kết cấu hạ tầng chất lượng cao, thúc đẩy kết nối kinh tế, thương mại, xúc tiến đầu tư. Việc Mỹ, Nhật Bản và các đối tác sẵn sàng hợp tác, chia sẻ là điều rất đáng quý. (3) Về xây dựng năng lực, Việt Nam mong muốn các đối tác giúp Việt Nam về trang thiết bị, đào tạo, huấn luyện; sẵn sàng phối hợp với các nước để cùng nhau đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. (4) Việt Nam luôn mong muốn châu Á – Thái Bình Dương và cả khu vực Ấn Độ Dương là khu vực hòa bình, ổn định, tự do và mở cửa cho tất cả các bên cùng tham gia. Do vậy, đến nay sơ bộ có thể khẳng định khi Mỹ và Nhật Bản triển khai chiến lược này, sẽ có nhiều nhiều cơ hội được mở ra đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, Chiến lược này cũng đang đặt ra không ít thách thức đối với Việt Nam. Cụ thể là: Thứ nhất, thúc đẩy hợp tác với các nước lớn thường đi kèm với việc tập hợp lực lượng. Cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực đang gia tăng nhanh chóng, Việt Nam cần hết sức tỉnh táo để tránh phải lựa chọn bên này hay bên kia. Xử lý tốt và cân bằng quan hệ giữa các nước lớn chính là chìa khóa quan trọng nhất để thúc đẩy hợp tác, tranh thủ các cơ hội to lớn do Chiến lược này mang lại. Thứ hai, hiện nay mục tiêu và nguyên tắc của Chiến lược này đã khá rõ, nhưng nội hàm, phương thức triển khai và bước đi cụ thể của mỗi đối tác còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Do đó, chiến lược này cần được theo dõi thêm. Thứ ba, vẫn còn không ít sự khác biệt giữa bốn nước chủ chốt (Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ), trong Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Do vậy, cần xử lý khéo mối quan hệ giữa các nước này.