Việt Nam và Nhật Bản (20/2) đã đồng tổ chức Hội thảo hợp tác quốc tế lần thứ 2 về nhận thức trong lĩnh vực hàng hải diễn, tại thủ đô Tokyo. Đây là một sự kiện chính thức nằm trong khuôn khổ của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF).
Tham dự hội thảo có các chuyên gia đến từ các nước thành viên ARF cùng các quan chức thuộc các bộ, ngành và cơ quan liên quan của Nhật Bản, như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ, Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Nhật Bản (JCG) và Lực lượng Phòng vệ trên biển (MSDF)… Tại hội thảo, các đại biểu nghe các báo cáo chuyên đề về các vấn đề như việc sử dụng năng lực nhận thức trong lĩnh vực hàng hải, các cơ chế liên ngành và hợp tác quốc tế để đối phó với các thách thức trong lĩnh vực hàng hải, trong đó có vấn nạn cướp biển, khủng bố trên biển và các hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định. Tại hội thảo, các đại biểu nhất trí về sự cần thiết phải tăng cường hợp tác nhằm nâng cao nhận thức trong lĩnh vực hàng hải; cần xây dựng một hệ thống chia sẻ thông tin quốc tế để ứng phó các sự cố trên biển
Bộ Ngoại giao Nhật Bản cho biết, để đối phó với thách thức trên, việc thu thập thông tin chính xác và kịp thời về các sự cố xảy ra trên một khu vực rộng lớn và chia sẻ thông tin đó với các bên liên quan là rất quan trọng để cho phép các nước ứng phó với những sự cố này một cách kịp thời. Bên cạnh đó, do một quốc gia đơn lẻ không thể thu thập thông tin một cách đầy đủ và toàn diện về các sự cố trên biển nên cần phải xây dựng một hệ thống chia sẻ thông tin quốc tế. Trong khi đó, Đại diện Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Nhật Bản giới thiệu về kinh nghiệm sử dụng vệ tinh để theo dõi hàng hải. Các đại biểu cũng nhất trí về sự cần thiết phải tăng cường hợp tác nhằm nâng cao nhận thức trong lĩnh vực hàng hải.
Thời gian gần đây, nhiều tổ chức, viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài nước tổ chức các hội thảo phân tích, đánh giá và dự báo về diễn biến tình hình Biển Đông. Đa phần giới chuyên gia, học giả khu vực và quốc tế đều bày tỏ quan ngại về tình hình căng thẳng trong khu vực, đồng thời lên án hoạt động phi pháp của Trung Quốc trong vùng biển của Việt Nam. Trong đó có nhiều Hội thảo được đánh giá cao, như: Hội thảo do Chương trình Đông Nam Á và Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) tổ chức. Tham dự Hội thảo có nhiều chuyên gia, học giả hàng đầu của các viện nghiên cứu lớn của Mỹ, Indonesia, Thái Lan, Philippines, Na Uy, Australia, Trung Quốc, Malaysia và Việt Nam. Các đại biểu tập trung thảo luận 3 nội dung chính bao gồm hiện trạng tại Biển Đông , lịch sử các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông và cách thức quản lý tranh chấp ở Biển Đông. Tại hội thảo, các học giả bày tỏ lo ngại về những diễn biến gần đây trên Biển Đông và nguy cơ xảy ra xung đột từ một sự cố giữa các bên tranh chấp, đồng thời cảnh báo các nước liên quan cần đưa ra những thông điệp rõ ràng và có những thay đổi về chính sách đối phó thích hợp hơn nhằm ngăn chặn tham vọng kiểm soát Biển Đông. Các chuyên gia cũng thảo luận những nỗ lực chính trị hợp pháp nhằm quản lý các tranh chấp, thúc đẩy hòa bình và ổn định trên Biển Đông, nhấn mạnh những bất đồng trong khu vực phải do chính các nước ASEAN tự giải quyết dựa trên Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) và thông qua các biện pháp xây dựng niềm tin. Trong đó nổi lên một số điểm quan trọng sau: Ông Bill Hayton, Chuyên gia hàng đầu về Biển Đông của Viện Nghiên cứu Quốc tế Hoàng gia Anh cho rằng: “Đây rõ ràng là một sự vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNLOS), tôi không thấy có điều gì có thể biện minh cho các hoạt động hiện nay của Trung Quốc. Việt Nam có mọi quyền để bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của mình. Theo công ước luật biển và phán quyết của Tòa Trọng Tài thường trực 3 năm trước đây thì khu vực biển đó thuộc về Việt Nam”. Giáo sư Stein Tonnesson thuộc Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo, Nauy cùng chia sẻ quan điểm trên: “Tôi cho rằng đây là một hành vi đáng chê trách từ phía Trung Quốc. Theo UNCLOS, Trung Quốc không có quyền được khai thác tài nguyên ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước khác. Trung Quốc đang tìm cách thực hiện “đường lưỡi bò” nhằm phục vụ phát triển bất chấp luật pháp quốc tế. Lần này Trung Quốc không khoan dầu mà tiến hành khảo sát diện rộng ở Biển Đông. Trung Quốc cũng đồng thời ngăn cản các nước khác tiến hành khảo sát trong khu vực thềm lục địa của các nước này. Trung Quốc đang khảo sát ở những khu vực mà nước này không có chủ quyền và ngăn cản Việt Nam tiến hành khảo sát tại những nơi Việt Nam có chủ quyền”.
Hội thảo “Các vùng biển với sự ổn định và phát triển kinh tế trong khu vực” (9/9/2019) do Quỹ hàng hải quốc gia Ấn Độ (NMF) phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Việt Nam tại Ấn Độ tổ chức. Hội thảo được chia thành hai phiên thảo luận, với chủ đề “Sự quyết đoán ở Biển Đông, quan điểm từ Việt Nam và Ấn Độ” và “Nhận diện các điểm dễ bị tổn thương về địa chính trị ở Biển Đông: Xác định các lợi ích kinh tế và con đường pháp lý”. Các học giả đã nêu bật tình hình căng thẳng trên Biển Đông hiện nay xuất phát từ các hành vi của Trung Quốc xâm phạm nghiêm trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác định theo các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982. Không những vậy, giới học giả cũng đã thảo luận về những lợi ích kinh tế cũng như các nguy cơ và thách thức đối với các tuyến hàng hải trọng yếu ở Biển Đông và sự cần thiết phải đảm bảo an ninh, an toàn cho những tuyến đường này phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế. Theo bà Aayushi Ketkar (giảng viên Khoa quan hệ quốc tế Đại học Gautam Buddha của Ấn Độ), hành vi của Trung Quốc hiện nay ở Biển Đông không chỉ cản trở tự do đi lại mà còn làm ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác – địa kinh tế là một trong số đó. Khu vực Biển Đông đóng vai trò hết sức trọng yếu đối với an ninh năng lượng trong hiện tại và tương lai. Việc thiết lập một trật tự dựa trên luật lệ là điều mà các nước như Việt Nam và Ấn Độ cần phải chú trọng. Vì nếu chúng ta không làm được thì không một nước nào khác có thể làm được.
Hội thảo quốc tế “Giải quyết tranh chấp ở Biển Đông” (19/9/2019) do Viện Quan hệ quốc tế Praha (IIR) thuộc Bộ Ngoại giao Séc phối hợp với Đại học Palacky Olomouc (Cộng hòa Séc) tổ chức. Phát biểu tại Hội thảo, Tiến sỹ Bill Hayton cho rằng tranh chấp ở Biển Đông là vấn đề phức tạp, không chỉ liên quan giữa Trung Quốc và các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông mà còn liên quan tới sự cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Vấn đề tranh chấp ở Biển Đông ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, trong đó có Liên minh châu Âu (EU), vì đây là vấn đề tác động tới sự ổn định và phát triển của khu vực; cho rằng EU cần tiếp tục quan tâm hơn nữa tới vấn đề Biển Đông và với thế mạnh của mình, EU cần hỗ trợ các nước ASEAN có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông nâng cao năng lực an ninh hàng hải. Ông Hayton cũng cho rằng Trung Quốc không có chứng cứ và cơ sở pháp lý để đòi hỏi chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông theo yêu sách “đường 9 đoạn”; tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đi ngược lại luật pháp quốc tế cũng như cam kết của nước này về việc duy trì quan hệ tốt đẹp với các nước trong khu vực; nhấn mạnh trong tiến trình giải quyết tranh chấp Biển Đông, một trong những yếu tố quan trọng nhất là cần phải đánh giá bằng chứng mà các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông đưa ra, đồng thời các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông cần thúc đẩy đàm phán, cùng cam kết duy trì hiện trạng, không mở rộng đòi hỏi tuyên bố chủ quyền. Ngoài ra, Tiến sỹ Bill Hayton cho rằng việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát Hải Dương 8 với sự hộ tống của các tàu hải cảnh vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) cho thấy Trung Quốc sử dụng sức mạnh nước lớn để đe dọa và cưỡng ép các nước trong khu vực từ bỏ quyền chủ quyền và quyền tài phán cũng như lợi ích hợp pháp của mình. Đây là hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982. EU cần quan tâm hơn tới vấn đề Biển Đông để ngăn chặn việc các quy tắc luật pháp quốc tế bị phá vỡ.
Hội nghị phát triển luật quốc tế châu Á (14-18/10/2019) do Quỹ phát triển luật quốc tế châu Á (DILA) phối hợp với Viện nghiên cứu hàng hải Hàn Quốc (KMI) và Đại học Indonesia tổ chức tại Jakarta. Hội nghị này có 8 phiên thảo luận, với sự tham dự của hơn 100 nhà nghiên cứu và chuyên gia luật đến từ 23 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung thảo về các vấn đề biển đảo, trong đó có Biển Đông. Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi gửi tham luận tới Hội nghị, khẳng định luật pháp quốc tế là “quy tắc” và là “nền tảng cần thiết” cho các cuộc đối thoại nhằm giải quyết tranh chấp. Bà Retno cũng cho rằng Quan điểm ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vừa được thông qua nhằm thúc đẩy đối thoại, hữu nghị, hợp tác cũng như luật pháp quốc tế. Trong khi đó, Tiến sỹ Nguyễn Bá Cường, Viện nghiên cứu khoa học Biển và Hải đảo của Việt Nam nhấn mạnh những đóng góp của Việt Nam vào sự phát triển luật quốc tế tại Biển Đông. Theo Tiến sỹ Nguyễn Bá Cường, tại Biển Đông cũng như các vùng biển khác trên thế giới, luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS), đã tạo ra một “trật tự pháp lý” giúp thúc đẩy giao thương, khai thác và sử dụng các vùng biển một cách hòa bình, công bằng và hiệu quả, cũng như thúc đẩy các hoạt động bảo tồn tài nguyên sinh vật, nghiên cứu và bảo vệ môi trường biển. Về những đóng góp của Việt Nam cho sự phát triển của luật quốc tế tại Biển Đông, Tiến sỹ Nguyễn Bá Cường cho biết cũng như các nước thành viên UNCLOS khác, Việt Nam đã và đang áp dụng bộ “hiến pháp đại dương” này trong việc khai thác Biển Đông vì lợi ích của mình. Theo đó, UNCLOS và luật pháp quốc tế đã trở thành công cụ giúp Việt Nam xác định và làm rõ các quyền hạn và nghĩa vụ hàng hải của mình; cung cấp các cơ chế giải quyết các tranh chấp hàng hải với các nước láng giềng khác; và quản lý hiệu quả các tranh chấp. Ngoài ra, ông Nguyễn Bá Cường nhấn mạnh UNCLOS đã đóng vai trò là cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc cho việc xác định và bảo vệ vùng biển và thềm lục địa, cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên biển.