Monday, November 25, 2024
Trang chủSự thật Trung HoaXu hướng chính sách Biển Đông của Malaysia dưới thời tân thủ...

Xu hướng chính sách Biển Đông của Malaysia dưới thời tân thủ tướng Muhyiddin Yassin

Sau khi cựu Thủ tướng Mahathir Mohamad tuyên bố từ chức, Quốc vương Malaysia đã bổ nhiệm ông Muhyiddin thay thế. Dưới sự lãnh đạo của tân Thủ tướng Muhyiddin, Malaysia được cho là sẽ duy trì chính sách cứng rắn trong vấn đề Biển Đông.

Quốc vương Malaysia đưa ra quyết định đại diện cho các nhà lãnh đạo đảng và các thành viên khác trong quốc hội bổ nhiệm ông Muhyiddin giữ chức tân Thủ tướng của Malaysia. Tân Thủ tướng Malaysia Muhyiddin Yassin sinh ngày 15/5/1947 tại Muar, Johor, Malaysia. Ông tốt nghiệp ngành Kinh tế học của Trường Đại học Malaya ở thủ đô Kuala Lumpur vào năm 1971. Được biết, trước khi trở thành Thủ tướng Malaysia, ông Yassin từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền nước này. Năm 1978, ông được bầu làm Nghị viên cho Pagoh. Trong khoảng thời gian từ 1995-1999, ông là Bộ trưởng Thanh niên và Thể thao, và đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Thương mại và Tiêu dùng trong nước từ năm 1999 đến 2003. Ông Yassin được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp dựa trên nông nghiệp năm 2004 và giữ vị trí này đến năm 2007. Từ 2008-2009, ông là Bộ trưởng Thương mại Quốc tế và Công nghiệp. Từ tháng 4/2009 đến tháng 7/2015, ông Yassin là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Giáo dục dưới thời Thủ tướng Malaysia khi đó là ông Najib Razak. Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2018 đến tháng 2/2020, ông đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Nội vụ Malaysia. Được biết, trước khi lên làm lãnh đạo Đảng Bersatu, ông từng tham gia Tổ chức Quốc gia Mã Lai (UMNO) – đảng bị đánh bại trong cuộc tổng tuyển cử năm 2018.

Ông Muhyiddin lên nắm quyền trong bối cảnh bất ổn về chính trị ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế – xã hội đất nước, vốn đang gặp nhiều khó khăn do những tác động của tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu những năm qua. Một số lĩnh vực sản xuất cũng như dịch vụ, đặc biệt là du lịch, đang bị ảnh hưởng nặng nề. Các chỉ số kinh tế đều đang diễn biến theo xu hướng xấu đi. Trong các cuộc thăm dò gần đây, nhiều ý kiến bày tỏ “chán nản” với những gì đang diễn ra trên chính trường. Người dân mong muốn chính phủ quan tâm đến quyền lợi của họ, muốn chính phủ đưa đất nước thoát khỏi những khó khăn về kinh tế thay vì các chính đảng lao vào cuộc chiến phe phái. Chính vì kinh tế đang là vấn đề đặt ra nhiều thách thức nên duy trì ổn định nền kinh tế vĩ mô được coi là ưu tiên cao nhất của tân Thủ tướng Muhyiddin. Chính phủ của ông phải tiếp tục tìm cách giảm lạm phát, giảm chi phí sinh hoạt để nâng cao đời sống người dân, duy trì niềm tin của người tiêu dùng; đồng thời thu hút hơn nữa đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong nước cũng kỳ vọng nhận được sự ủng hộ của chính phủ để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh trên toàn cầu.

Phát biểu sau lễ nhậm chức, ông Muhyiddin Yassin (2/3) cho biết, “chứng kiến hai ứng viên là cựu Thủ tướng Mahathir Mohamad và cựu Phó Thủ tướng Anwar Ibrahim đều không giành được sự ủng hộ từ đa số các nhà lập pháp, tôi đã suy nghĩ rất lâu về những gì tôi có thể làm để chấm dứt tình trạng hỗn loạn chính trị”; đồng thời nhấn mạnh “chỉ trở thành thủ tướng để cứu đất nước”; đồng thời kêu gọi sự ủng hộ của người dân để ông thực thi chức trách của mình.Theo đó, trong bài phát biểu đầu tiên trước công chúng, nhà lãnh đạo này khẳng định, ông là Thủ tướng đại diện cho người dân Malaysia thuộc mọi sắc tộc cũng như nghề nghiệp. Tân Thủ tướng Muhyiddin mong muốn người dân dành cho ông cơ hội để có thể phát huy hơn 40 năm kinh nghiệp chính trị phục vụ đất nước. Theo Thủ tướng Muhyiddin, những ưu tiên trước mắt của ông bao gồm tăng cường tính liêm chính của bộ máy hành chính cũng như cải thiện khả năng quản trị, chống tham nhũng và lạm dụng quyền lực, giải quyết những khó khăn mà người dân đang phải đối mặt do chi phí sinh hoạt tăng cao, nâng cao chất lượng y tế với giá cả phải chăng, đối phó với dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19 và cải thiện giáo dục.

Trong khi đó, có nhiều ý kiến cho rằng trong bối cảnh tình hình chính trị trong nước đang bất ổn, nhiều khả năng tân Thủ tướng Muhyiddin Yassin sẽ thực thi chính sách cứng rắn trong vấn đề Biển Đông nhằm tìm kiếm sự ủng hộ của người dân, cải thiện đời sống và phát triển kinh tế biển, nhất là trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, khai thác năng lượng ở Biển Đông, vì:

Đầu tiên, Malaysia là một quốc gia ở Đông Nam Á, có vị trí địa chiến lược quan trọng, được bao quanh bởi các đại dương. Do đó, nền kinh tế của Malaysia phụ thuộc vào hàng hải và kinh tế biển. Bên cạnh đó, tài nguyên dầu khí ở Biển Đông là trụ cột quan trọng trong việc phát triển kinh tế quốc gia của Malaysia. Số liệu chi tiết về “trữ lượng dầu thô và khí đốt của các nước tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông” do Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ (EIA) công bố hồi tháng 4/2013 cho thấy, trữ lượng dầu khí của vùng biển mà Malaysia chiếm giữ là cao nhất tại Biển Đông. Từ những năm 70 của thế kỷ trước, trong số những nước xung quanh Biển Đông tranh giành nguồn dầu khí ở Biển Đông, Malaysia hành động sớm, tiến hành nhanh chóng, trở thành nước khai thác dầu khí nhiều nhất, hưởng lợi nhất ở Biển Đông. Năm 2009, sản lượng dầu của Malaysia ở Biển Đông vượt quá 30 triệu tấn, khí tự nhiên đạt gần 150 triệu m3. Đến năm 2014, số lượng giếng dầu mà Malaysia khai thác ở khu vực quần đảo Trường Sa lên đến gần 90 giếng, chiếm hơn một nửa so với tổng số giếng mà các nước Trung Quốc, Việt Nam, Philippines và Malaysia khai thác. Là một quốc gia biển điển hình, kinh tế biển là một phần quan trọng trong việc thực hiện công nghiệp hóa đất nước của Malaysia, mà khai thác nguồn tài nguyên dầu khí của Biển Đông lại là nguồn thu nhập quan trọng của quốc gia. Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, thu nhập từ dầu mỏ đã chiếm khoảng 20% thu nhập quốc gia của Malaysia. Số liệu thống kê và báo cáo phân tích của Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ cho thấy trữ lượng dầu mỏ của Malaysia đứng vị trí thứ tư khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam. Malaysia từ đó hy vọng phát triển thành trung tâm dự trữ, thương mại, phát triển dầu mỏ và khí tự nhiên của châu Á, điều này sẽ thu hút kỹ thuật chuyên nghiệp và dịch vụ hạ tầng có sức cạnh tranh. Đó chính là dựa vào nguồn dầu khí phong phú, Malaysia đưa ra “Tầm nhìn 2020”, mục tiêu chung của kế hoạch này là vào năm 2020 bước vào hàng ngũ các nước phát triển. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải thúc đẩy mạnh mẽ trình độ công nghiệp hóa đất nước, thực hiện chuyển đổi nền kinh tế quốc gia, và trong ngành công nghiệp năng lượng, mục tiêu của Malaysia là xây dựng nền tảng thương mại và dự trữ năng lượng của châu Á, phát triển thành cường quốc năng lượng châu Á. Tuy nhiên, nhìn vào hiệu quả kinh tế của Malaysia những năm gần đây thì ý nguyện này khó mà đạt được. Đến năm 2017, Thủ tướng Najib Razak đề xuất “Kế hoạch chuyển đổi quốc gia năm 2050” để thay cho “Tầm nhìn 2020”. Mục tiêu thiết lập của “Kế hoạch chuyển đổi quốc gia năm 2050” là năm 2050, Malaysia sẽ trong danh sách 20 nước đứng đầu về kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên cho dù là “Tầm nhìn 2020” hay “Kế hoạch chuyển đổi quốc gia năm 2050”, thì việc thực hiện các mục tiêu to lớn này ở một mức độ rất lớn được quyết định bởi sự phát triển ổn định của ngành năng lượng Malaysia, mà Biển Đông lại là nguồn khai thác chủ yếu tài nguyên dầu khí của nước này. Về ý nghĩa này, Biển Đông là lợi ích then chốt của Malaysia.

Thứ hai, Biển Đông là một kênh quan trọng để Malaysia triển khai thương mại quốc tế. Biển Đông phía Đông tiếp giáp Thái Bình Dương, phía Tây tiếp nối với Ấn Độ Dương, tuyến đường Nam – Bắc của Biển Đông lại nối liền với khu vực Đông Á và châu Đại Dương. Vùng biển này là đầu mối thương mại trọng yếu của ASEAN, châu Á và khu vực châu Á – Thái Bình Dương, mà thương mại châu Á – Thái Bình Dương rõ ràng đã trở thành động cơ mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế và thương mại khu vực. Các nước Đông Nam Á dựa vào Biển Đông để phát triển thương mại với Đông Á, Nam Á, Trung Đông và phương Tây, mạng lưới thương mại này nhờ Biển Đông mới có thể tồn tại. Malaysia ở vào vị trí xung yếu về giao thông giữa phương Đông và phương Tây, từ xa xưa đã chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong mạng lưới thương mại quốc tế, và sự phát triển kinh tế của Malaysia ngày nay cũng phụ thuộc rất nhiều vào thương mại quốc tế. Là một trong những nước ven Biển Đông, Malaysia hiểu rõ được tầm quan trọng của vùng biển này đối với kinh tế khu vực và thương mại toàn cầu.Ngoài ra, cùng với việc mức độ phụ thuộc của kinh tế Malaysia vào thương mại quốc tế ngày càng cao, Biển Đông là tuyến đường thương mại trên biển, đem lại nguồn lợi nhuận ổn định cho Malaysia, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Malaysia.

Thứ ba, thu nhập từ nguồn dầu khí Biển Đông đã nâng cao mức độ bảo vệ an ninh quốc phòng của Malaysia, đem lại năng lực và sự bảo đảm trong việc bảo vệ an ninh vùng biển tuyên bố chủ quyền của nước này. Những năm 70 của thế kỷ 20, các nước như Anh, Mỹ sau khi rút quân khỏi Đông Nam Á, để nâng cao mức độ phòng vệ của mình, Malaysia bắt đầu nhanh chóng phát triển lực lượng hải quân và không quân của nước này, chuyển hướng trọng tâm phòng vệ từ an ninh trong nước sang an ninh khu vực, và đặc biệt coi trọng an ninh vùng biển tuyên bố chủ quyền. Đến cuối những năm 1970, sức mạnh của hải quân Malaysia đã có sự cải thiện đáng kể, nhận thức về mở rộng trên biển theo đó cũng được tăng cường. Đồng thời, để nâng cao địa vị quốc tế của mình, Malaysia bắt đầu nỗ lực cho một sự phát triển sức mạnh hải quân và không quân mới, tuyên bố phải xây dựng một hải quân hiện đại hóa khiến mọi người kinh ngạc. Đến những năm 1990, trọng tâm chính sách quốc phòng của Malaysia đã hoàn toàn chuyển hướng sang biển. Đặc biệt là từ cuộc xung đột trên biển nỗ ra giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1988, xuất phát từ suy tính bảo vệ quyền lợi Biển Đông, Malaysia đã đặt vị trí của quần đảo Trường Sa từ thứ hai lên thành ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch quốc phòng, và phát triển sức mạnh hải quân cũng trở thành lựa chọn quan trọng để nước này duy trì quyền lợi biển của chính phủ khóa trước. Từ những năm 1990, Malaysia đẩy nhanh tốc độ xây dựng lực lượng biển, nỗ lực xây dựng một đội ngũ hải quân hiện đại. Sau khi bước vào thế kỷ mới, đặc biệt là 10 năm trở lại đây, Malaysia tiếp tục tăng cường sức mạnh quân sự. Số liệu thống kê năm 2011 cho thấy tổng quân số của hải quân Malaysia là hơn 10000; trang bị vũ khí vượt xa Việt Nam và Philippines. Malaysia còn có hai chiếc tàu ngầm điện – diesel lớp Scorpene, mang tên của hai vị tổng thống đầu tiên và thứ hai của Malaysia, có thể thấy chính phủ nước này rất kỳ vọng vào nó.

Vì vậy, thời gian tới, Chính quyền của tân Thủ tướng Muhyiddin Yassin sẽ thực thi các chính sách cứng rắn trong vấn đề Biển Đông. Trong đó, tập trung vào một số vấn đề như bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của Malaysia ở Biển Đông; Thúc đẩy phối hợp với các nước liên quan tranh chấp chủ quyền trong khu vực và kêu gọi ASEAN đóng vai trò dẫn dắt và chủ động trong việc xử lý mọi tình huống trên Biển Đông. Bên cạnh đó, Malaysia sẽ tìm cách thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các nước lớn trong cả lĩnh vực chiến lược và kinh tế. Điều này được thể hiện bằng việc Malaysia cam kết duy trì sự trung lập và kêu gọi sự tham gia của tất cả các tác nhân, đồng thời nhấn mạnh vai trò của việc tham vấn, củng cố vai trò trung tâm của ASEAN cũng như mở rộng chủ nghĩa đa phương của tổ chức khu vực này trên nhiều tầng nấc. Ngoài ra, Malaysia sẽ tăng cường hợp tác, giao lưu hải quân với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm thúc đẩy sự tin cậy chính trị, nâng cao năng lực hải quân và khả năng ứng phó với những tình huống đột xuất trên biển; đồng thời tìm cách ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới