Tuesday, November 26, 2024
Trang chủBiển nóngTQ đẩy mạnh lợi dụng nghiên cứu khoa học để khẳng định...

TQ đẩy mạnh lợi dụng nghiên cứu khoa học để khẳng định yêu sách “chủ quyền” trên Biển Đông

Trong những năm gần đây, Trung Quốc đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về Biển Đông; thành lập thêm nhiều Viện, Trung tâm, Cơ sở nghiên cứu dưới nhiều hình thức khác nhau; tăng cường giao lưu học thuật quốc tế về Biển Đông nhằm tìm kiếm các nguồn tài nguyên và “bằng chứng lịch sử” để hỗ trợ cho yêu sách chủ quyền phi lý ở Biển Đông.

Trung tâm Nghiên cứu Tổng hợp Đảo và Đá thuộc Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) vừa đưa vào sử dụng thử nghiệm trái phép 02 trạm nghiên cứu khoa học tại Đá Subi, Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Hoạt động nghiên cứu về Biển Đông được Chính phủ Trung Quốc đặc biệt quan tâm; các Viện, Trung tâm, Cơ sở nghiên cứu tiến hành đồng bộ hóa dưới nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc cũng dành một nguồn kinh phí và chính sách lớn cho các đơn vị nghiên cứu, có chính sách đãi ngộ tốt đối với giới chuyên gia, nhà nghiên cứu của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông; mở thêm nhiều đơn vị nghiên cứu mới bằng nhiều hình thức và cấp độ khác nhau, song Chính phủ Trung Quốc vẫn đứng đằng sau chỉ đạo.

Các đơn vị nghiên cứu của Trung Quốc tiến hành nghiên cứu một cách đồng bộ về: Luật Biển Đông và quan hệ quốc tế; Lịch sử và văn hóa Biển Đông; Kinh tế chính trị xã hội các nước ven Biển Đông; Tài nguyên môi trường Biển Đông; Hợp tác an ninh và tự do hàng hải trong khu vực Biển Đông; Chiến lược và quyết sách trong vấn đề Biển Đông; Luật quốc tế và tranh chấp Biển Đông, Chính sách Biển Đông của các các nước; Nghiên cứu đối sách giải quyết hòa bình tranh chấp ở Biển Đông; Bảo vệ môi trường và khai thác phát triển tài nguyên Biển Đông; Chiến lược và cơ chế phát triển kinh tế hải dương; “Con đường tơ lụa trên Biển” thế kỷ 21… Ngoài ra, các đơn vị nghiên cứu của Trung Quốc tiến hành hợp tác nghiên cứu, trao đổi nghiên cứu học thuật với hơn 20 nước như Mỹ, Anh, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Ấn Độ, Malaysia, Philippnes, Indonesia, Đài Loan… và có liên kết với gần 100 Viện, Trung tâm nghiên cứu trên thế giới và nhiều tổ chức Chính phủ, phi chính phủ của khu vực và quốc tế.

Các kết quả nghiên cứu đã “góp phần” tham mưu cho Chính phủ Trung Quốc đưa ra nhiều quyết sách quan trọng trong vấn đề Biển Đông. Một số viện nghiên cứu hàng đầu của Trung Quốc như Viện nghiên cứu Nam Hải, Trung tâm hợp tác sáng tạo Nam Hải Trung Quốc được đưa vào danh sách các Viện nghiên cứu trọng điểm quốc gia, góp phần quan trọng trong việc hoạch định chính sách quốc gia. Những thành quả nghiên cứu của một số viện trên như “Nguyên nhân và phát triển tranh chấp ở Biển Đông”, “Báo cáo đánh giá tình hình khu vực Biển Đông hàng năm”… được đánh giá cao và có ảnh hưởng lớn đến nhiều cơ quan, ban ngành của Trung Quốc; được nhiều chuyên gia, học giả Trung Quốc và quốc tế sử dụng các dữ liệu trong các công trình nghiên cứu.

Từ việc được Chính phủ hậu thuẫn và tăng cường đầu tư ngân sách, khiến số lượng chuyên gia, học giả Trung Quốc nghiên cứu về Biển Đông ngày một tăng; các đề tài, bài nghiên cứu về Biển Đông ngày càng nhiều.Trước đây, số chuyên gia, học giả Trung Quốc nhiên cứu về Biển Đông chỉ có một nhóm nhỏ, nằm rải rác ở một số Viện, Trung tâm, đại học lớn của Trung Quốc, như Viện Nghiên cứu Nam Hải, Đại học Phúc Đán, Đại học Bắc Kinh… Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số lượng các chuyên gia, học giả và các Viện, Trung tâm nghiên cứu của Trung Quốc “nhiều như nấm”, hầu hết các tỉnh, thành và đại học của Trung Quốc đều có các Viện, Trung tâm nghiên cứu riêng. Đáng chú ý, Trung Quốc đang trẻ hóa đội hình chuyên gia nghiên cứu về Biển Đông, đa phần số chuyên gia của Trung Quốc có độ tuổi từ 30-45 và số lượng các bài viết, đề tài nghiên cứu về Biển Đông của Trung Quốc tăng đột biến trong 5 năm gần đây. Tuy nhiên, nội dung các bài nghiên cứu của Trung Quốc còn mang nặng tính bao biện cho lập trường và yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông, đổ lỗi cho các nước khác làm phức tạp tình hình và “xâm chiếm” biển đảo của Trung Quốc; ít có các bài viết phân tích từ khía cạnh luật pháp quốc tế một cách công bằng. Đáng chú ý, Trung Quốc có một lực lượng chuyên gia, học giả được đánh giá là theo trường phái “diều hâu”, trong đó chủ yếu là những sỹ quan quân đội Trung Quốc, nhiều người trong số họ mang hàm Thiếu tướng như Doãn Trác, Trương Thiệu Trung… thường có những bài viết, phát biểu mang tính hiếu chiến, đe dọa các nước liên quan. Trong bất cứ vụ việc gì ở Biển Đông, bất kể là hành động khiêu khích của Trung Quốc hay những hành đông vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc ở Biển Đông, số chuyên gia này đều sử dụng chiêu bài “cả vũ lấp miệng em”, kêu gọi Chính phủ Trung Quốc dùng vũ lực giải quyết hoặc lên án các nước “xâm phạm chủ quyền” của Trung Quốc.

Không những vậy, thời gian gần đây, Trung Quốc còn tích cực xây dựng, triển khai trái phép các trạm nghiên cứu trên thực địa – chủ yếu là trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa và 7 thực thể nhân tạo do Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam; chủ động triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế về nghiên cứu, khảo sát khoa học biển với nhiều nước khu vực. Báo chí và giới chức Trung Quốc tích cực tuyên truyền, bao biện về mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong hợp tác nghiên cứu khảo sát khoa học biển, khi cho rằng hoạt động hợp tác nghiên cứu khảo sát khoa học biển của Trung Quốc với các nước là một nội dung quan trọng được Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020), nhằm giúp Trung Quốc từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng “Cường quốc biển”, phục vụ triển khai “Con đường tơ lụa trên biển” và cùng với các nước khác xây dựng một “Cộng đồng chung vận mệnh”. Nhiều bài báo ca ngợi rằng hoạt động hợp tác khảo sát khoa học biển là nỗ lực của Trung Quốc trong việc chủ động chia sẻ kinh nghiệm với các nước để góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng ngừa thiên tai, phát hiện và khai thác các nguồn tài nguyên biển nhằm mang lại lợi ích cho các nước.

Tuy nhiên, giới chuyên gia quốc tế cũng cho rằng việc Trung Quốc thúc đẩy hoạt động hợp tác nghiên cứu khảo sát, thăm dò tài nguyên với các nước không chỉ nhằm cạnh tranh, mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ở nhiều khu vực biển quốc tế trong đó có Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, hoạt động này còn nhằm tạo tiền đề thúc đẩy mở rộng hợp tác trên biển giữa Trung Quốc với các nước, qua đó hỗ trợ đắc lực cho việc triển khai sáng kiến “Con đường Tơ lụa trên biển thế kỷ 21” và góp phần giúp Trung Quốc hiện thực hóa mục tiêu trở thành “Cường quốc biển” vào giữa thế kỷ 21. Rõ ràng là, thông qua việc triển khai các phương tiện tham gia, Trung Quốc không chỉ tìm kiếm được sự gắn kết về chính trị, kinh tế với các nước, mà còn khảo sát được địa hình, địa chất đáy biển phục vụ cho các hoạt động quân sự của nước này, nhất là để xây dựng phương án tác chiến của tàu ngầm và tàu sân bay, thu thập tin tức về bố trí lực lượng của các nước. Ngoài ra, hoạt động hợp tác khảo sát nghiên cứu khoa học biển với các nước còn giúp Trung Quốc xây dựng hình ảnh là “cường quốc biển có trách nhiệm trong bảo vệ môi trường, ứng phó thiên tai và cùng các nước xây dựng “Cộng đồng chung vận mệnh”. Tại Biển Đông, việc Trung Quốc tăng cường hoạt động hợp tác nghiên cứu khoa học, trong đó nước được chú ý nhất chính là Philippines, nhằm tạo hình ảnh về “thiện chí” của Trung Quốc trong việc thúc đẩy hợp tác và giải quyết hòa bình các tranh chấp, tạo ra sự ngộ nhận trong dư luận về một Biển Đông ổn định và hợp tác theo những gì Trung Quốc tuyên truyền, nhằm che đậy việc nước này đang đẩy mạnh quân sự hóa ở Biển Đông như đưa tên lửa, máy bay chiến đấu ra Trường Sa, lắp đặt hệ thống Rada gây nhiễu sóng…, đồng thời, Trung Quốc đã tạo sự nghi kỵ trong nội bộ các nước ASEAN và hiểu lầm của các nước bên ngoài về các hoạt động hợp tác cùng khai thác song phương với Trung Quốc.

Từ những vấn đề trên cho thấy, Trung Quốc đang lợi dụng mọi chiêu bài có thể sử dụng để tuyên truyền, củng cố yêu sách “chủ quyền” ở Biển Đông. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng Trung Quốc hoàn toàn không có chứng cứ lịch sử, pháp lý để đưa ra các yêu sách chủ quyền đối với khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển phụ cận. Vì vùng biển này là thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam, được Luật pháp quốc tế và đông đảo các quốc gia trên thế giới thừa nhận.

Trung tâm Nghiên cứu Tổng hợp Đảo và Đá thuộc Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) vừa đưa vào sử dụng thử nghiệm trái phép 02 trạm nghiên cứu khoa học tại Đá Subi, Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

RELATED ARTICLES

Tin mới