Để đạt được ý đồ chiến lược ở khu vực Biển Đông, Trung Quốc đã ban hành nhiều quy định nhằm tạo hành lang pháp lý thực thi hoạt động “bảo vệ” quyền và lợi ích trong khu vực. Tuy nhiên, xét từ khía cạnh luật pháp quốc tế cho thấy Trung Quốc đang đi ngược lại những văn bản luật pháp quốc tế quan trọng nhất.
Đi ngược lại với nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia
Ngày 04/09/1958, Chính phủ nước CHND Trung Hoa ra Tuyên bố về lãnh hải, trong đó khẳng định “lãnh thổ của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa bao gồm đại lục nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và các đảo ven biển, Đài Loan và các đảo xung quanh nó bao gồm đảo Điếu Ngư, Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc”. Như vậy, tuyên bố này đã đưa hai quần đảo (vùng đảo) Hoàng Sa và Trường Sa (tức Tây Sa và Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc) – một trong những bộ phận lãnh thổ thiêng liêng bất khả xâm phạm của Việt Nam vào phạm vi yêu sách của Trung Quốc.
Sau đó, trong hai công hàm công hàm CML17/2009 và CML18/2009 ngày 07/05/2009, Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển tỉnh Hải Nam năm 2012, Dự thảo sửa đổi Biện pháp thực hiện Luật Ngư nghiệp năm 2013; Báo cáo trình bày lập trường chính thức của CHND Trung Hoa về vụ kiện trọng tài do Philipines khởi xướng ngày 07/12/2014 và các thư ngoại giao trong vụ giàn khoan HD981 năm 2014 và vụ kiện Phi-Trung năm 2016, Trung Quốc cũng trắng trợn tuyên bố “chủ quyền” đối với hai vùng đảo này của Việt Nam. Với việc tuyên bố chủ quyền đối với hai vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại với nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên bố ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng LHQ, Định ước Hensinki ngày 1/8/1975 và nhiều văn kiện pháp lý quốc tế khác.
Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”
Trong quá trình thực thi các chính sách, pháp luật biển, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực cưỡng chiếm trái phép toàn bộ vùng đảo Hoàng Sa (năm 1956, 1974) và một phần vùng đảo Trường Sa (năm 1988, 1992, 1995) của Việt Nam. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn sử dụng rất nhiều mưu kế, thủ đoạn, chiến thuật, chiến lược trên tất cả các mặt trận kinh tế, chính trị – ngoại giao, gia tăng căng thẳng và không ngừng tạo ra sức ép cho Việt Nam và các quốc gia trong khu vực Biển Đông. Những hành vi nêu trên của Trung Quốc đã cấu thành hành vi đe dọa dùng vũ lực và sử dụng vũ lực đã bị luật pháp quốc tế hiện đại nghiêm cấm.
Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
Với vị thế là một cường quốc trên thế giới, lại có công dân là thẩm phán tại hầu khắp các thiết chế tài phán quốc tế, như: Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ), Tòa án Luật Biển Quốc tế (ITLOS), Trọng tài Thường trực Lahaye (PCA),… lẽ ra Trung Quốc phải tích cực sử dụng các thiết chế này để giải quyết các tranh chấp quốc tế nói chung và tranh chấp Biển Đông nói riêng, tuy nhiên trên thực tế, quốc gia này lại nhất mực khước từ các thiết chế văn minh này.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cố tình giữ lập trường : “Hoàng Sa không có tranh chấp”, “kiên quyết chỉ giải quyết song phương’’, “không đa phương hóa”, “không tài phán hóa” việc giải quyết tranh chấp Biển Đông…. mặc dù phía Việt Nam và các quốc gia khác đã nhiều lần đề xuất. Đặc biệt, trong vụ kiện do Philippines khởi xướng tại Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS 1982, Trung Quốc còn kiên quyết lập trường “3 không”: không chấp nhận thẩm quyền của Tòa, không tham gia tố tụng, không chấp nhận hiệu lực của phán quyết. Trong khi luật pháp quốc tế yêu cầu các quốc gia tích cực sử dụng các biện pháp nhằm giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế, việc Trung Quốc cố tình trì hoãn, bất hợp tác và cố tình làm trầm trọng thêm tình hình tranh chấp là một trong những biểu hiện tiêu biểu thể hiện sự vi phạm nguyên tắc” hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế”.
Đi ngược lại các quy định của nguyên tắc “chiếm hữu thực sự”
Theo quy định của luật pháp quốc tế, chủ quyền quốc gia đối với một vùng lãnh thổ phải được xác lập bằng các phương thức thụ đắc hợp pháp trên cơ sở các nguyên tắc nhất định, trong đó có nguyên tắc chiếm hữu thực sự.
Trong khi đó, chính sách, pháp luật biển của Trung Quốc lại hoàn toàn đi ngược với các yêu cầu này, với các biểu hiện cụ thể như sau: Hành vi chiếm hữu của Trung Quốc chỉ là các hoạt động mang tính chất tư nhân, không thể hiện ý chí của Nhà nước; Hai vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa không phải là lãnh thổ vô chủ hoặc bị bỏ rơi khi Trung Quốc thực hiện việc chiếm hữu; Trung Quốc đã không đưa ra được các bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên hai vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục, hòa bình từ khi hai quần đảo này chưa thuộc về Việt Nam; Việc chiếm hữu của Trung Quốc trên hai vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa không đáp ứng được yêu cầu về sự đi kèm của yếu tố tinh thần (animus) và vật chất (corpus) trong chiếm hữu lãnh thổ; Việc chiếm hữu của Trung Quốc đối với hai vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn bị sự phản đối gay gắt của các quốc gia và cộng đồng quốc tế.
Đi ngược lại với nguyên tắc thỏa thuận
Theo quy định của luật biển quốc tế hiện đại, quốc gia có nghĩa vụ tuân thủ nguyên tắc thỏa thuận, hợp tác với các bên hữu quan để giải quyết các vấn đề pháp lý trong vùng biển chồng lấn. Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Quốc lại đơn phương công bố yêu sách “đường lưỡi bò” chiếm khoảng 80% diện tích Biển Đông, lấn sâu vào các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia, Malaysia mà không hề có sự thỏa thuận với các quốc gia này. Không những vậy, trước thiện chí của các nước mong muốn giải quyết các tranh chấp biển đảo tại các thiết chế quốc tế phổ cập, thì Trung Quốc lại kịch liệt phản đối vấn đề này. Điều này không chỉ được ghi nhận trong các tuyên bố chính thức của giới chức cầm quyền Trung Quốc mà còn được ghi nhận cụ thể trong Báo cáo của Bộ Ngoại giao nước CHND Trung Hoa về Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa Trọng tài; Sách trắng “Trung Quốc kiên trì thông qua đàm phán giải quyết tranh chấp liên quan giữa Trung Quốc và Philippines ở Nam Hải (Biển Đông)” ngày 01/7/2016.
Đi ngược lại với nguyên tắc công bằng trong phân định biển
Chính sách, pháp luật biển Trung Quốc đã không đảm bảo được một vị thế cân bằng cho các quốc gia trong khu vực với những tuyên bố đơn phương mang tính áp đặt, cưỡng ép đối với các quốc gia trong khu vực Biển Đông. Với việc ban hành các văn bản chính sách, pháp luật thể hiện yêu sách chủ quyền bao phủ khoảng 80% diện tích Biển Đông, xâm lấn các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia khu vực, Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc công bằng dù công bằng chỉ mang ý nghĩa tương đối. Yêu sách này được vạch ra không dựa trên bất kỳ phương pháp hoạch định, phân định biển nào và cũng không được công bố theo thủ tục luật định bằng hải đồ với bản kê tọa độ địa lý rõ ràng và nộp Liên hợp quốc lưu chiểu. Hơn nữa, vừa công khai quốc tế bản đồ đường yêu sách, Trung Quốc vấp phải sự phản đối kịch liệt từ phía các quốc gia hữu quan cũng như các quốc gia trong và ngoài khu vực, bởi sự phi lý của đường yêu sách.
Đi ngược lại với nguyên tắc bảo vệ tài nguyên biển
Từ khoảng cuối những năm 2013, đầu năm 2014 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành hàng loạt các hoạt động lấn biển, nạo vét, san lấp và cải tạo với quy mô lớn đồng loạt trên nhiều thực thể do quốc gia này chiếm đóng trên Biển Đông mà chưa có dấu hiệu giảm tốc. Hành vi “đảo hóa” của Trung Quốc đã và đang tàn phá nhiều rạn san hô (khoảng 80% theo nhận định của giới nghiên cứu Trung Quốc), hủy hoại nghiêm trọng môi trường, làm mất cân bằng sinh thái Biển Đông, hủy diệt các loài sinh vật biển, triệt phá nguồn sinh kế duy nhất của hàng chục triệu ngư dân (chưa kể những tổn thất không thể tính bằng tiền và không thể khôi phục), vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “bảo vệ môi trường biển”, “bảo vệ và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên biển” và đi ngược lại với xu hướng của khu vực về bảo vệ môi trường biển, bảo vệ quyền con người.
Đi ngược nguyên tắc “tự do biển cả” và “sử dụng biển cả vì mục đích hòa bình”
Thông qua việc yêu sách khoảng 80% diện tích Biển Đông, phạm vi yêu sách của Trung Quốc không chỉ giới hạn ở các vùng biển đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia trong khu vực mà còn bao gồm cả khu vực Biển cả và Vùng. Trong khi đó, theo quy định của UNCLOS 1982, Biển cả và Vùng là di sản chung của nhân loại. Việc Trung Quốc thiết lập quyền kiểm soát với khu vực này, thực hiện hàng loạt các hoạt động gây hấn trên biển như cắt cáp, đâm va, bắt giữ trái phép tàu và ngư cụ của ngư dân, triển khai rầm rộ hoạt động “siêu đảo hóa” phi pháp tại các thực thể ngầm … đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “tự do biển cả” và “sử dụng biển cả vì mục đích hòa bình” được ghi nhận tại Điều 87 và 88 UNCLOS 1982”.
Từ những phân tích trên cho thấy, Trung Quốc đã vi phạm, đi ngược lại hầu hết những quy định quan trọng của luật pháp quốc tế về biển đảo. Hành vi này cho thấy Bắc Kinh đang sử dụng sức mạnh cơ bắp để áp dụng luật chơi trên biển. Điều này đã, đang và sẽ đe dọa hòa bình, ổn định trong khu vực.