Sunday, November 24, 2024
Trang chủBiển nóngÝ kiến chuyên gia: Tham vọng hàng hải của TQ trong chuỗi...

Ý kiến chuyên gia: Tham vọng hàng hải của TQ trong chuỗi đảo đầu tiên và xa hơn thế

Việc Trung Quốc đánh chiếm các đảo, đá ở Biển Đông, tiến hành cải tạo, quân sự hóa, biến các đảo nhân tạo thành tiền đồn quân sự trái phép trên biển sẽ không giúp nước này có ưu thế trước một nước Mỹ hùng mạnh.

Giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) Greg Poling nhận định, những bước tiến dài trên thực địa về khả năng tác chiến của Trung Quốc ở Biển Đông đã khiến Bắc Kinh có bước tiến vượt trội so với các nước trong khu vực. Trong vài năm trở lại đây, Trung Quốc đã thực hiện chiến dịch từng bước qua nhiều giai đoạn nhằm thay đổi hiện trạng Biển Đông một cách nhanh chóng. Giai đoạn thứ nhất, bắt đầu kể từ cuối năm 2013 khi các tàu nạo vét Trung Quốc xuất hiện ở quần đảo Trường Sa để bồi đắp đảo nhân tạo. Cho đến đầu năm 2017, Bắc Kinh chuyển sang giai đoạn hai là hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng trên các đảo nhân tạo để phục vụ mục đích quân sự và dân sự, bao gồm nhà để máy bay, nhà chứa tên lửa, kho chứa vũ khí và nhiên liệu, hải cảng, radar, thiết bị thu thập thông tin tình báo… Công việc này phần lớn hoàn tất vào cuối năm 2017. Giai đoạn ba được thực hiện từ cuối năm 2017, theo đó Trung Quốc triển khai nhanh chóng các khí tài quân sự tân tiến ra các đảo nhân tạo, bao gồm đưa máy bay quân sự ra các bãi Subi và Vành Khăn, hạ cánh lên Bãi Chữ Thập các máy bay vận tải và tuần tra biển, đưa những tên lửa hành trình đầu tiên ra Trường Sa, thiết lập các thiết bị phá sóng… bên cạnh việc tăng nhanh chóng các bệ phóng tên lửa được triển khai trên đảo Phú Lâm, hòn đảo lớn nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam hiện Trung Quốc đang chiếm giữ trái phép.

Tuy nhiên, điều đáng lo ngại nhất là “sự gia tăng như vũ bão các tàu hải giám và tàu dân quân biển của Trung Quốc đóng ở các đảo thuộc Trường Sa”. Những chiếc tàu này không phải ra Biển Đông hoạt động rồi về như trước mà thực sự là chúng đóng đô ở các đảo nhân tạo này ít nhất là trong hàng tuần hay hàng tháng trời mỗi lần. Chính khả năng cơ động này của Trung Quốc đã giúp họ có thể duy trì cường độ quấy rối trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam quanh sự cố Bãi Tư Chính vừa qua. Đây là sự thực hiện quyền lực cưỡng ép ở mức độ thấp của Trung Quốc vốn chưa đến mức sử dụng vũ lực. Điều này là không thể xảy ra trước khi Trung Quốc hoàn thành các đảo nhân tạo.

Bên cạnh đó, chuyên gia Greg Poling cho biết, Trung Quốc hiện có trên 300 tàu dân quân biển hoạt động trái phép mỗi ngày trên trong “đường 9 đoạn”, khiến nguy cơ đụng độ giữa ngư dân Việt Nam hay Philippines với các tàu dân quân biển Trung Quốc ngày càng tăng cao. Ngoài ra, việc thực hiện quyền lực cưỡng ép này của Trung Quốc còn được thể hiện trong lĩnh vực khai thác dầu khí. Bắc Kinh đã quyết định rõ ràng có lẽ từ năm ngoái rằng họ sẽ không dung thứ cho bất kỳ hành động khảo sát dầu khí nào trên Biển Đông nữa, thậm chí đối với những lô dầu khí đang khai thác. Điển hình trong vấn đề này là hành vi phá rối của Trung Quốc với hãng dầu khí Shell ngoài khơi Malaysia hồi tháng 5/2019.

Trong khi đó, Mỹ và các đồng minh, cho dù là Nhật Bản, Australia hay Anh, Pháp, đều không có sự chuẩn bị và không có phương cách để đối đầu với tình huống này. Trong đó, Mỹ không có các quy tắc phải xử lý thế nào với các ngư dân được trang bị vũ khí cũng như không hiểu làm sao để khiến Trung Quốc phải trả giá bên ngoài lĩnh vực quân sự. Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính và thậm chí là cả Nhà Trắng hầu như cũng không thấy bóng dáng trên vấn đề này. Chỉ còn có Bộ Quốc phòng là thực hiện các chuyến tuần tra vì tự do hàng hải (FONOP) và giúp tăng cường năng lực cho các đối tác trong khu vực. Do đó, nguy cơ sẽ là chẳng mấy chốc Mỹ sẽ lâm vào tình thế là các đối tác ở Đông Nam Á, nhất là Philippines – vốn là đồng minh có hiệp ước với Mỹ – sẽ đặt vấn đề nếu như sự hiện diện quân sự đón đầu (forward deployed presence) của Mỹ không giúp ích gì được cho tôi trong việc đánh bắt hay khai thác dầu khí thì tại sao tôi lại ủng hộ mối quan hệ đồng minh này.

Ông Greg Poling đưa ra hai đề xuất để tăng cường khả năng đối phó của Mỹ trước Trung Quốc trên Biển Đông. Trước hết, sẽ không có cơ hội tìm ra giải pháp cho tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông mà thay vào đó, Mỹ nên tìm phương cách bền vững để quản lý tranh chấp. Mỹ không có lợi ích gì về việc ai sẽ sở hữu các bãi đá của quần đảo Trường Sa, nhưng Mỹ có lợi ích quốc gia trong việc xây dựng lòng tin về các cam kết với các đồng minh của Washington. Do đó, Mỹ cần củng cố địa vị đối với đồng minh Philippines mà điều này có nghĩa là thực thi Hiệp định Hợp tác Quốc phòng Tăng cường (EDCA) vốn được ký giữa hai nước trong khuôn khổ “xoay trục về châu Á” của chính quyền cựu Tổng thống Barack Obama. Chỉ như vậy thì Mỹ mới có thể duy trì một lực lượng luân phiên tại khu vực Biển Đông. Nếu không thì Mỹ không thể nào dễ dàng phá dỡ các căn cứ của Trung Quốc trên các đảo nhân tạo. Thứ hai, Washington nên tìm cách quay về tình trạng hồi năm 2016 dưới thời Tổng thống Obama là “có một liên minh quốc tế mạnh mẽ sẵn sàng nêu tên và chỉ trích những hành vi sai trái của Trung Quốc”. Cách làm này sẽ khiến cho Trung Quốc gánh chịu hậu quả về danh tiếng bên cạnh các hậu quả về kinh tế. Thứ ba, Mỹ nên trừng phạt các thực thể Trung Quốc tham gia vào các hoạt động bán quân sự phi pháp trên Biển Đông y hệt như cách mà chúng ta đã trừng phạt các thực thể Nga ở miền đông Ukraine. Những cách làm này, không phải là để trở về nguyên trạng như cũ mà là để thúc đẩy những thỏa thuận cùng khai thác tài nguyên cân bằng hơn giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.

Chuyên gia Collin Koh Swee Lean, nghiên cứu viên thuộc Khoa Nghiên cứu Quốc tế, Đại học Kỹ thuật Nanyang ở Singapore cho rằng những hòn đảo nhân tạo phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông không bao giờ có thể là được xem là “hàng không mẫu hạm không thể chìm”, đồng thời lấy dẫn chứng một số tướng lĩnh của PLA (Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc) đã thừa nhận kín đáo cũng như công khai rằng trong trường hợp chiến sự nổ ra thì những hòn đảo này trên thực tế gần như vô dụng. Chúng sẽ bị phá sạch gần như ngay lập tức ngay khi bắt đầu bất kỳ cuộc xung đột nào trên Biển Đông. Do đó chủ yếu những hòn đảo này chỉ có công dụng trong thời bình. Chuyên gia Collin Koh Swee Lean cho biết, giới nghiên cứu Trung Quốc đang phải đối mặt với thách thức lớn để duy trì và vận hành những đảo nhân tạo trên. Theo đó, các nhà khoa học Trung Quốc đang nghiên cứu cách làm sao để cho san hô và xi măng có thể kết dính lại với nhau để không bị sóng biển đánh sập cũng như không bị xói mòn theo thời gian do thời tiết, và làm sao để các thiết bị điện tử không bị ăn mòn. Hiện nay, Trung Quốc chưa có khả năng ngăn ngừa sự ăn mòn của thời tiết, ông nói và cho biết họ đang tìm cách để làm được điều này trong vòng 10 năm tới và cơ hội họ làm được “là rất cao”. Bên cạnh đó, ông Collin cũng lưu ý rằng mặc dù đội tàu quân sự của hải quân Trung Quốc trên Biển Đông vẫn không tăng không giảm gì nhiều nhưng chúng “có sự tăng trưởng về chất”. Song song với việc xây dựng năng lực linh động là việc xây dựng kho vũ khí tên lửa vốn cho phép Trung Quốc thực thi sức mạnh với phạm vi rộng khắp thậm chí ngoài phạm vi Biển Đông. Và trong những năm gần đây chúng ta đã chứng kiến những bước tiến thú vị của PLA trong việc phối hợp tác chiến trong nội bộ của họ. Chẳng hạn như binh đoàn tên lửa có thể hợp tác với hải quân trong các cuộc tập trận ngoài khơi. Điều này có ý nghĩa lớn.

Trước tình hình trên, ông Collin cho rằng các nước Đông Nam Á cần phải có chính sách nhất quán bất kể các chính phủ khác nhau lên nắm quyền sau mỗi chu kỳ bầu cử; đồng thời cảnh báo rằng Bộ Quy tắc Ứng xử (COC) vốn đang được bàn thảo giữa Trung Quốc và ASEAN, một khi được ký kết cũng nhanh chóng “trở thành vô dụng”. Vì Trung Quốc luôn khăng khăng đòi các quốc gia bên ngoài Biển Đông (nhất là Mỹ) phải chấm dứt và không được hợp tác quân sự với các nước trong khu vực – điều mà Mỹ không thể chấp nhận. Nếu Mỹ không thể chấm dứt hợp tác quân sự với các nước quanh Biển Đông thì căng thẳng sẽ leo thang trở lại và do đó COC sẽ trở nên vô tác dụng.

Được biết, trong nhưng năm gần đây, Trung Quốc đã hoàn thành việc nạo vét và bồi đắp trái phép để tạo ra 7 thực thể nhân tạo mới tại quần đảo Trường Sa, tiến hành xây dựng các căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo. Theo tính toán của Tổ chức Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI), các công trình này bao phủ một khu vực rộng khoảng 290.000m2, trên đá Chữ Thập, Subi và Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa và đá Bắc, đá Cây và đá Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa; tổng diện tích các công trình xây dựng trên Chữ Thập vào khoảng 110.000m2, bao gồm các nhà chứa máy bay lớn hơn dọc đường băng chính. Bắc Kinh cũng tích cực triển khai các xây dựng, đưa vào sử dụng nhiều hạng mục công trình phi pháp trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phục vụ ngư dân, binh lính đồn trú trái phép trên Biển Đông. Tính đến thời điểm hiện tại, Trung Quốc đã triển khai một loạt các hành động phi pháp nhằm “cải thiện đời sống” và phục vụ việc giám sát trong khu vực, cụ thể: Tập đoàn viễn thông Trung Quốc triển khai trái phép mạng 4G tại các đảo nhân tạo thuộc quần đảo Trường Sa, trong đo 2 trạm phát sóng 4G được đặt tại đá Chữ Thập và đá Su Bi; xây dựng đài phát thanh khí tượng trái phép tại đảo Phú Lâm của Việt Nam, đài trên được phát bằng hai ngôn ngữ Anh – Trung; khánh thành rạp chiếu phim, mở chi nhánh Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China), thành lập và đưa vào sử dụng cái gọi là “Chi đội cảnh sát phòng cháy chữa cháy” trên cái gọi là “thành phố Tam Sa”…

Ngoài ra, Trung Quốc cũng triển khai nhiều kế hoạch phi pháp khác để tăng cường khả năng “quản lý và giám sát” ở Biển Đông, cụ thể: Bắc Kinh liên tục phóng nhiều hệ thống vệ tinh giám sát biển, triển khai lắp đặt hệ thống cảm biến dưới nước, lắp đặt hệ thống quan sát dưới đáy biển, xây dựng hệ thống quan trắc hải dương và xây dựng các trạm quan sát môi trường ở Biển Đông. Nhìn bề ngoài thì những kế hoạch trên của Trung Quốc đều phục vụ các mục đích giám sát, bảo vệ môi trường biển và dự đoán, cảnh báo trước thảm họa thiên nhiên. Song trên thực tế, đằng sau những kế hoạch trên là âm mưu nắm quyền kiểm soát trên Biển Đông, nó sẽ giúp Bắc Kinh giám sát hoạt động tàu thuyền, máy bay, thậm chí là tàu ngầm của các nước hoạt động ở Biển Đông. Việc xây dựng, lắp đặt các hệ thống giám sát trên Biển Đông (trên bầu trời, trên mặt nước và dưới đáy biển) của Trung Quốc hoàn toàn vi phạm luật pháp quốc tế. 

Những hành động trên của Trung Quốc không ngoài mục đích củng cố chứng cứ pháp lý để khẳng định sự sinh sống, quyền kiểm soát trên thực tế đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, đây đều là những hành vi phi pháp, đi ngược lại nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, và đường nhiên nó chẳng bao giờ giúp Trung Quốc khẳng định “chủ quyền” ở Biển Đông.

RELATED ARTICLES

Tin mới