Monday, November 18, 2024
Trang chủBiển nóngViệt Nam nên kiên trì hợp tác với Campuchia tuyên truyền giải...

Việt Nam nên kiên trì hợp tác với Campuchia tuyên truyền giải thích về biên giới

Chúng ta cần tập trung làm tốt hơn nữa việc cung cấp thông tin về biên giới lãnh thổ cho cán bộ, chiến sỹ đang trực tiếp thực thi nhiệm vụ và công chúng.

LTS: Tiến sĩ Trần Công Trục gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài phân tích tiếp theo về các cơ sở pháp lý quản lý và xử lý tranh chấp trên tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia trong tình hình hiện nay như thế nào, xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.

Trong tình hình phức tạp hiện nay trên tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia, trước hết hai bên cần thống nhất cách hiểu và giải thích các văn kiện pháp lý mà hai bên đã thỏa thuận lấy làm căn cứ để xử lý các tranh chấp xẩy ra trong khi hai bên đang tiến hành những phần việc còn lại của quá trình giải quyết vấn đề biên giới.

Thống nhất cách hiểu và giải thích các văn kiện pháp lý

Các văn kiện pháp lý đó là: Hiệp định về quy chế biên giới giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia ngày 20 tháng 7 năm 1983. Trên danh nghĩa pháp lý thì cho đến nay Hiệp định này vẫn còn hiệu lực, mặc dù nó đã tồn tại trên 10 năm, với 2 lần mặc nhiên gia hạn theo quy định về hiệu lực của Hiệp dịnh này.

Hiệp định này có 19 điều, trong đó có những điều khoản quy định ranh giới quản lý tạm thời trong khi chờ kết quả giải quyết biên giới mới giữa 2 nước và quy định xử lý các quan hệ xã hội diễn ra trong khu vực biên giới. Thông cáo báo chí ngày 17 tháng 01 năm 1995, đặc biệt là nội dung nêu tại Điểm 8 nhấn mạnh:

“Hai bên khẳng định lại lòng mong muốn xây dựng đường biên giới giữa hai nước thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị,ổn định lâu dài, góp phần phát triển quan hệ hợp tác láng giềng tốt đẹp giữa hai nước.

Hai bên thỏa thuận trong khi chờ đợi giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới thì duy trì sự quản lý hiện nay, không thay đổi, xê dịch các cột mốc biên giới; giáo dục không để nhân dân xâm canh, xâm cư và cùng nhau hợp tác giữ gìn an ninh trật tự biên giới”.

Tôi cũng xin nhấn mạnh rằng, về mặt pháp lý, giá trị của Thông cáo báo chí không thể thay thế cho Hiệp định quy chế biên giới năm 1983 vẫn đang còn hiệu lực thi hành. Quan trong hơn cần lưu ý là, về cơ bản nội dung của chúng không mâu thuẫn nhau. Có nghĩa là trong khi chờ đợi giải quyết những vấn đề tồn tại về biên giới thì “duy trì sự quản lý hiện nay, không thay đổi, xê dịch các cột mốc…” 

Vấn đề là phải hiểu nội dung “duy trì sự quản lý hiện nay” như thế nào? Hiện nay, hai bên vẫn còn những nhận thức và giải thích còn  khác nhau, xuất phát từ những hoàn cảnh, động cơ khác nhau. 

Theo tôi, vấn đề mấu chốt là phải thống nhất cách sử dụng đường biên giới được vẽ trên 26 mảnh bản đồ Bonnes tỷ lệ 1/100.000 của Sở địa dư Đông Dương xuất bản trước năm 1954 đã được nêu tại Điều 1:

“Cho đến khi được hoạch định chính thức, biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia là đường biên giới hiện tại được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương (Service Géographique de l’Indochine) thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất như quy định ở Điều 1 Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia ký ngày 20 tháng 7 năm 1983”.

Như tôi đã nêu ở trên, đường biên giới trên 26 mãnh bển đồ Bonne nói trên đã được hai đoàn đàm phán thông nhất lựa chọn và đã chuyển sang bản đồ địa hình UTM của Hoa Kỳ để trở thành nội dung của Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 mà hai bên đã chính thức ký kết và phê chuẩn theo đúng thủ tục pháp lý.

Tiến sĩ Sok Touch từ Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia trong một buổi đối chiếu bản đồ biên giới Việt Nam – Campuchia. Ảnh: The Phnom Penh Post.

Dựa vào hướng đi của đường biên giới đã được vẽ trên bản đồ UTM của Hoa Kỳ kèm theo Hiệp ước hoạch định năm 1985 là đúng đắn và hoàn toàn hợp lý, bởi vì:

Đó chính là đường biên giới của 26 mảnh bản đồ Bonnes đã dược hai bên thống nhất lựa chọn một cách thận trọng, khách quan. Đặc biệt, là các chuyên gia kỹ thuật bản đồ của cả hai bên đã hợp tác cùng chuyển đổi từ hệ quy chiếu thiết lập bản đồ Bonnes sang hệ quy chiếu xác lập bản đồ UTM theo những phương pháp tính toán đáng tin cậy nhất hiện tại.

Điều này phù hợp với quy định tại Điều 1 của Hiệp định quản lý biên giới nói trên. Trong đó có nêu một điều kiện tiên quyết về thời hạn sử dụng ranh giới quản lý tạm thời là “cho đến khi được hoạch định chính thức”. Điều đó có nghĩa là khi đã hoàn thành giai đoạn hoạch định biên giới thì việc quản lý biên giới về nguyên tắc phải theo đường biên giới được mô tả trong Hiệp ước hoạch định.

Tuy nhiên, trong thực tế việc phân giới cắm mốc chưa hoàn tất, những vấn đề đo đạc tính toán chuyển đường biên giới mô tả trong Hiệp ước hoạch định ra thực địa không tránh khỏi những sai số. Có những khu vực do có nhiều yếu tố tự nhiên và dân cư… mà tạo ta những sai số lớn, thậm chí hai bên cần phải ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định đã ký và có hiệu lực vì những sai số đó, thậm chí bổ sung không chỉ 1 lần.

Đó cũng là chuyện thường xảy ra trong thực tiễn quốc tế. Vì vậy, khi xử lý những tranh chấp do cách giải thích và áp dụng các quy định nói trên, hai bên phải trên tinh thần cầu thị, hợp tác để cùng nhau đi khảo sát tại thực địa để tìm ra giải pháp thực tế nhất đối với một số khu vực phức tạp mà cách giải thích vận dụng còn khác nhau. 

Vấn đề chiếu cố đến sự ổn định về đời sống, sinh hoạt của dân cư vùng biên giới thường được quan tâm áp dụng trong thực tiễn giải quyết vấn đề biên giới, tất nhiên là trên cơ sở có đi có lại, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi…  

Việt Nam nên kiên trì hợp tác với Campuchia, giải thích rộng rãi cho dư luận về công tác phân giới cắm mốc giữa 2 nước 

Trong tình hình hiện nay, Việt Nam nên tiếp tục hợp tác cùng với Chính phủ Vương quốc Campuchia trên tinh thần thiện chí hợp tác hữu nghị, láng giềng truyền thống và đặc biệt là phải tuân thủ một cách nghiêm túc các Hiệp ước, Hiệp định đã ký kết theo đúng nguyên tắc và thủ tục pháp lý quốc tế và của mỗi nước, với tư cách là những chủ thể bình đẳng, độc lập trong quan hệ quốc tế.

Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng đại này, nhất là trong tình hình quan hệ chính trị giữa 2 nước và khu vực đang diễn biến rất phức tạp hiện nay, theo tôi nghĩ, chúng ta cần tập trung làm tốt hơn nữa việc cung cấp thông tin về biên giới lãnh thổ cho cán bộ, chiến sỹ đang trực tiếp thực thi nhiệm vụ và công chúng cả nước cũng như bạn bè quốc tế.

Làm sao để dư luận nắm thật vững nội dung pháp lý về biên giới, lãnh thổ; về quá trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới đã và đang diễn ra trên tinh thần thật sự cầu thị, khoa học, khách quan, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.

Từ đó mới có thể củng cố thêm niềm tin vào sự nghiệp chính nghĩa, trong sáng của mình, và cũng từ đó mà hiểu rõ nhưng âm mưu, thủ đoạn của những phần tử dân tộc cực đoan đang tìm mọi cách chống phá Chính phủ Vương quốc Campuchia, phá hoại quan hệ láng giềng hữu nghị giữa nhân 2 nước Việt Nam – Campuchia thông qua vấn đề biên giới lãnh thổ vốn rất phức tạp, nhạy cảm.

Cụ thể là chúng ta nên kiên trì hợp tác, thông cảm và chia sẻ những khó khăn của những đồng nghiệp Campuchia đang được giao nhiệm vụ giải quyết vấn đề biên giới với Việt Nam, đừng để họ phải rơi vào hoàn cảnh khó xử, thậm chí bị vô hiệu hóa bởi những kích động của những phần tử cực đoan.

Hiện nay cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử, pháp lý có liên quan đến vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Campuchia. Tất nhiên, các công trình này theo những cách tiếp cận khác nhau xuất phát từ những lĩnh vực chuyên môn khoa học khác nhau của các học giả, nhà nghiên cứu.

Vấn đề cần lưu ý là, để giải quyết những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, thông thường người ta chủ yếu dựa vào các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý để chứng minh.

Các nguyên tắc pháp lý được áp dụng phổ biến trong thực tiễn giải quyết tranh chấp biên giới quốc tế hiện tại là cơ sở pháp lý mà các quốc gia dựa vào đó để đàm phán giải quyết tranh chấp lãnh thổ, tiến hành hoạch định, phân giới cắm mốc.

Tuyệt đối không thể vào cái gọi là “chủ quyền lịch sử” xuất phát từ tham vọng của những phần tử theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, muôn lợi dụng “lich sử” để phục vụ cho những động cơ chính trị đen tối và phản động của họ để giải quyết vấn đề biên giới.

RELATED ARTICLES

Tin mới